Siết đào tạo bác sĩ, ngành luật: Nên tách bạch giữa 'học' và 'hành nghề'
Xung quanh ý kiến cho rằng các trường đại học không chuyên không được đào tạo những ngành đặc thù như Y và Luật, nhiều chuyên gia nhấn mạnh cần phân biệt rõ giữa 'học' và 'hành nghề'.
Trao đổi với VietNamNet, TS Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục đại học của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng, có những ý kiến lo ngại về chất lượng đào tạo đại học cũng dễ hiểu, bởi gần đây, một số trường thi nhau mở ngành y, luật.
Tuy nhiên, theo ông Phương, không nên nhầm lẫn mà cần tách bạch giữa chuyện 'học' và 'hành nghề'. Y và luật là hai lĩnh vực đặc thù, trong đó đào tạo đại học mới chỉ là bước đầu. Học y 6 năm cũng chưa thể hành nghề ngay, mà phải tiếp tục học nội trú và mất gần một thập kỷ để trở thành bác sĩ. Với ngành luật, sau khi tốt nghiệp, sinh viên phải học thêm 39 tín chỉ tại Học viện Tư pháp và tham gia tập sự tại đoàn luật sư trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề.
Bên cạnh đó, theo ông, đối với khối đào tạo luật, không phải ai học luật ra cũng để làm luật sư. Nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều có bộ phận pháp chế, cần nhân sự am hiểu pháp luật nhưng không yêu cầu chứng chỉ hành nghề luật sư. Do đó, cử nhân luật vẫn đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.

Sinh viên Trường ĐH Y Hà Nội thực hiện nghi thức tuyên thệ lời thề nghề nghiệp trong lễ tốt nghiệp. Ảnh: Thanh Hùng
TS Lê Đông Phương cũng cho rằng, đối với ngành y, việc mở ngành đào tạo tràn lan rất nguy hại. Do đó, nhà nước cần khống chế thông qua luật.
"Chúng ta phải kiểm soát chất lượng bằng các quy định, chế tài phù hợp để đảm bảo tất cả những chương trình đào tạo về luật, y phải đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực định mở. Việc này cần được làm rất chặt chẽ và quá trình xét duyệt phải có sự phối hợp giữa Bộ GD-ĐT (bên quản lý nhà nước về giáo dục) với Bộ Tư pháp/Bộ Y tế. Có như vậy mới đảm bảo rằng khi đã cấp phép mở ngành đào tạo là có thể đảm bảo chất lượng đầu ra”, TS Phương nói.
Dù mở ngành y tràn lan là nguy hiểm và cần kiểm soát, song theo TS Phương, Việt Nam đang thiếu rất nhiều bác sĩ nên không thể giới hạn đào tạo chỉ ở một vài trường.
“Tỷ lệ bác sĩ trên dân số của chúng ta đang rất thấp. Vì vậy, để nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho người dân, điều quan trọng là định hướng các trường mở ngành y thế nào cho đúng và kiểm soát được chất lượng đào tạo, thay vì giới hạn", ông Phương nói.
Theo ông, các trường đào tạo về y độc lập thường tách rời với khối khoa học kỹ thuật, công nghệ. Nhưng trong các trường đa ngành, nếu mở thêm ngành y cũng có điểm tốt là có thể kết nối các lĩnh vực để đưa những kiến thức khoa học công nghệ mới có thể phục vụ cho ngành y vào giảng dạy. Ông dẫn chứng, y học tại một số nước phát triển đã sử dụng AI trong chẩn đoán và phát hiện bệnh...
Nhiều chuyên gia khác cũng khẳng định, ở nhiều nước phát triển, ngành y được đào tạo ở nhiều đại học đa ngành, đa lĩnh vực và chất lượng rất tốt.

Sinh viên ngành y dược trong giờ thực hành. Ảnh: UMP.
TS Hoàng Ngọc Vinh (nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD-ĐT) cũng đồng tình với việc cần siết chặt chất lượng đào tạo ngành y và luật, nhưng cho rằng cần xem xét kỹ một số vấn đề.
“Khái niệm ‘trường không chuyên’ hiện chưa có định nghĩa pháp lý rõ ràng. Trường đại học đa ngành mặc nhiên bị coi là ‘không chuyên’ hay chỉ những cơ sở không có năng lực đào tạo cốt lõi? Nếu dùng một nhãn khái quát như vậy để cấm đào tạo, rất dễ rơi vào tình trạng đánh đồng, chủ quan, thậm chí duy ý chí. Trên thế giới, phần lớn các đại học mạnh đều là đại học đa ngành, và họ có khoa y, khoa luật rất chuẩn mực, được kiểm định nghiêm ngặt và có uy tín cao”, ông Vinh nói.
Theo ông, vấn đề then chốt không nằm ở tên gọi hay “đẳng cấp hành chính” của cơ sở đào tạo, mà nằm ở điều kiện bảo đảm chất lượng.
“Đào tạo bác sĩ hay cử nhân luật phải bị ràng buộc bởi các chuẩn cao: đội ngũ giảng viên, hệ thống bệnh viện thực hành hoặc môi trường thực tập pháp lý, thời lượng thực hành, chuẩn đầu ra, và đặc biệt là kiểm định độc lập gắt gao. Một trường, dù chuyên hay không, nếu không đáp ứng được các điều kiện này thì phải dừng đào tạo. Ngược lại, nếu đáp ứng được, việc cấm chỉ vì ‘không chuyên’ là thiếu căn cứ khoa học”, ông nêu quan điểm.
Ông Vinh cho rằng, Bộ GD-ĐT và Bộ Y tế nên phối hợp để quản lý chất lượng từ tiền kiểm đến quá trình đào tạo và hậu kiểm theo chuẩn. Cần kiểm tra, giám sát và công khai kết quả. Theo ông, việc lo ngại về chất lượng ngành y và luật là đúng và một trong những giải pháp chính là siết chặt chuẩn. "Lỗi dẫn đến không đảm bảo chất lượng đào tạo nằm ở hệ thống và giám sát, không nên đổ hết cho mô hình không chuyên", ông nói.













