Theo đánh giá của Mỹ và ngụy, các bên tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, đều sử dụng tình báo đến “mức độ tinh vi”. CIA của Mỹ đã chuẩn bị từ trước, họ đã tuyển người (tất cả đều là người gốc Miền Bắc), huấn luyện tại căn cứ Long Thành và chuẩn bị cho chuyến xuất phát đầu tiên vào ngày 27/5/1961.
Một trong những toán biệt kích đầu tiên "tốt nghiệp" gồm 4 tên, được đặt mật danh là CASTOR, với người chỉ huy là Hà Văn Chấp, cùng 3 toán viên là Ðinh Văn, Quách Thưởng và Phạm Công Thương, được thả xuống vùng đồi 828, thuộc tỉnh Sơn La.
Phi công lái chiếc máy bay C-47 chở toán CASTOR đó chính là Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó ông ta còn mang lon thiếu tá và là chỉ huy trưởng liên đoàn vận tải.
Toán CASTOR không tồn tại được lâu, chúng bị công an vũ trang của ta phát hiện, bao vây và đã phải đầu hàng sau 3 ngày lẩn trốn. Như vụ ARES, phía Việt Nam cũng giữ kín vụ bắt được toán CASTOR. CIA hoàn toàn không nghi ngờ gì cả và tiếp tục gửi toán thứ nhì gồm 3 tên, với mật danh là ECHO vào ngày 2/6/1961.
Còn thảm hơn toán CASTOR, cả toán ECHO 3 người này đều bị bắt ngay ngày hôm sau. CIA cũng không biết là toán ECHO đã bị bắt và 12 ngày sau lại gửi toán thứ ba, mật danh DIDO, gồm 4 tên là người dân thiểu số Thái Ðen, vào Lai Châu. Lần này, phi công của chiếc máy may C-47 vẫn là Nguyễn Cao Kỳ.
Toán DIDO cũng không may mắn hơn toán ECHO. Chúng bị bắt hết tại biên giới Việt-Lào sau khoảng 10 ngày. Hơn một tháng sau, ngày 29/6/1961, đài tiếp vận BUGS của CIA ở Philippines, nhận được điện của CASTOR. Không biết CASTOR đã bị bắt và đầu hàng, CIA rất vui mừng và thông báo cho CASTOR biết 4 ngày sau sẽ gửi đồ tiếp tế cho chúng.
Theo kế hoạch, chuyến bay này sẽ lại do Nguyễn Cao Kỳ điều khiển nhưng vào giờ chót đã có sự thay đổi và phi công là Phan Thanh Vân. Chiếc C-47 này đã bị một đơn vị phòng không Việt Nam bắn hạ khi bay ngang không phận của Hòn Nẹ, gần bờ biển của tỉnh Ninh Bình, và rơi trong một khu đồn điền cách bờ biển khoảng 20 km.
Tất cả phi hành đoàn đều bị thương, 4 tên chết vì vết thương quá nặng, 3 tên còn sống bị xét xử vào tháng 11/1961. Ðể tiếp tục đánh lừa CIA về tung tích của toán CASTOR, an ninh Việt Nam đã dàn cảnh cho 3 tên này khai trước tòa, là phi vụ của chúng là để tiếp tế cho 1 toán biệt kích trong tỉnh Hòa Bình (chứ không phải cho toán CASTOR ở Sơn La).
Phòng tình báo dặc biệt 45 của trung tá Lê Quang Tung và CIA tin là toán CASTOR chưa bị lộ thân phận, chương trình cài biệt kích này đã thành công nên lại tiếp tục gửi các toán biệt kích ra miền Bắc.
Toán biệt kích kế tiếp mang mật danh là EUROPA, gồm 5 tên gốc Mường. Lần này, phi cơ được sử dụng là loại C-54, phi công vẫn là tên Kỳ, lúc này đã thăng lên cấp trung tá. Chiếc C-54 bay thẳng từ Sài Gòn, không cần phải nghỉ để được tiếp nhiên liệu như chiếc C-47 của các lần trước ra Bắc và thả toán EUROPA xuống vùng Hòa Bình.
Ngày hôm sau cả toán EUROPA, gồm 5 tên Mường này đều bị bắt. Lại dùng phương thức cũ, tình báo miền Bắc lại để cho người của toán EUROPA gửi điện về. CIA và Phòng tình báo 45 lại tin là thêm một phi vụ thành công nữa.
Việc đưa biệt kích ra Bắc lại được CIA tiếp tục, với các toán ATLAS tháng 3/1962, toán REMUS tháng 4/1962, toán TOURBILLON tháng 5/1962 và toán EROS tháng 6/1962; cũng như các toán trước, các toán này đều bị công an vũ trang của miền Bắc phát hiện, truy lùng và bắt giữ toàn bộ.
Kể từ mùa hè năm 1962, chính phủ Mỹ giao lại công tác điệp viên, tình báo cho Bộ Quốc phòng và cơ quan tình báo CIA chỉ còn giữ vai trò yểm trợ. Phái bộ quân sự Mỹ tại nam Việt Nam (MACV), đã thành lập SOG - đơn vị có trách nhiệm đào tạo, huấn luyện điệp viên cho quân đội ngụy.
Thành viên của SOG hoàn toàn là người tình nguyện, phần lớn thuộc lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ. Trong thời gian 1962-1963, chính quyền ngụy trải qua nhiều xáo trộn chính trị nghiêm trọng. Vì những xáo trộn chính trị này, nên mãi đến tháng 4/1964, SOG mới triển khai hoạt động với các đơn vị của cơ quan tình báo mới. Nguồn ảnh: TL. (còn nữa)
Phạm Xuân Ẩn - tướng tình báo huyền thoại của Quân đội Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Tiến Minh