Sớm giải quyết tồn đọng ở dự án vệ sinh môi trường TP.HCM giai đoạn 2
Tiến độ thực hiện dự án đã chậm so với quyết định phê duyệt và cam kết vốn trong hiệp định vay; trong đó đáng chú ý, gói thầu XL-02 chậm hơn 3 năm so với dự kiến ban đầu.
Dự án vệ sinh môi trường Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013 với thời gian thực hiện dự án từ năm 2014 đến năm 2019.
Dự án được kỳ vọng sẽ xử lý nước thải chuẩn loại A trước khi đổ ra sông Sài Gòn với công suất ban đầu 480.000 m3/ngày đêm. Do phát sinh nhiều vướng mắc, hạn chế nên nhiều gói thầu chậm tiến độ, ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án.
Tiền không giải ngân vẫn phải trả lãi vay phát sinh
Dự án Vệ sinh môi trường Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2 do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Ban Quản lý dự án) làm chủ đầu tư, có tổng vốn đầu tư 524 triệu USD; trong đó, vốn ODA của Ngân hàng Thế giới là 450 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng của Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại dự án này, gói thầu XL-02 (xây dựng nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc-Thị Nghè ở quận 2) là gói thầu quan trọng nhất, có tổng mức đầu tư 307,3 triệu USD, triển khai theo hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế có sơ tuyển nhưng cũng là gói thầu xảy ra nhiều chuyện “lình xình” nhất liên quan đến khiếu nại kết quả trúng thầu, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ chung của dự án.
Không chỉ vậy, tại dự án Vệ sinh môi trường thành phố giai đoạn 2 còn xảy ra nhiều tồn tại khác cần nhanh chóng được cơ quan có chức năng giải quyết để đẩy nhanh tiến độ dự án, phát huy hiệu quả mục tiêu dự án đã đề ra.
Cụ thể, trong Thông báo số 150/TB-KTNN, Kiểm toán Nhà nước đã chỉ ra một số vi phạm trong hoạt động xây dựng và quản lý, sử dụng vốn đầu tư dự án này.
Theo đó, quá trình xây dựng kế hoạch vốn đầu tư Ban Quản lý dự án không lường trước được việc lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu XL-02 phức tạp, kép dài nên không thể giải ngân kịp thời nguồn vốn IBRD của Ngân hàng Quốc tế về Tái Thiết và Phát triển (IBRD - thuộc Ngân hàng Thế giới) trong năm 2018, nhưng vẫn phải trả khoản chi phí cam kết rút vốn và lãi vay phát sinh.
Ước tính lũy kế đến hết tháng 3/2019, số phí cam kết và lãi vay phải trả do chậm trễ trong việc lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu XL-02 lên tới hơn 2,556 triệu USD (tương đương gần 57,2 tỷ đồng).
Trong khi đó, một số bản vẽ thiết kế thi công tại gói thầu XL-04, XL-06 thuộc hạng mục hệ thống thoát nước chung cấp 2, cấp 3 và hệ thống thoát nước mưa lưu vực 1 còn sai sót nhưng chưa được phát hiện và điều chỉnh kịp thời.
Quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu của gói thầu XL-07, XL-08 đều vượt thời gian tối đa theo quy định tại Nghị định số 63/NĐ-CP ngày 26/2/2014 của Chính phủ, không đăng tải thông tin về kết quả lựa chọn nhà thầu (gói thầu XL-08), đăng tải thiếu chính xác thông tin về kết quả đấu thầu (gói thầu XL-07).
Về chất lượng quản lý các gói thầu, theo Kiểm toán Nhà nước, Tư vấn giám sát chưa thực hiện đầy đủ việc kiểm soát các biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định, chưa kiểm soát chặt chẽ tính hợp lệ của các kết quả thí nghiệm của các nhà thầu (gói thầu TV-07), chấp thuận nghiệm thu thanh toán lớp vật liệu cát gia cố 6% xi măng khi chưa đủ kết quả thí nghiệm (gói thầu XL-05); chưa lập các hồ sơ, thủ tục liên quan đến các thay đổi so với bản vẽ thiết kế được duyệt tại gói thầu XL-04, XL-06 để trình phê duyệt, duyệt điều chỉnh.
Tiến độ thực hiện dự án đã chậm so với quyết định phê duyệt và cam kết vốn trong hiệp định vay; trong đó đáng chú ý, gói thầu XL-02 chậm hơn 3 năm so với dự kiến ban đầu.
Thực tế các gói thầu của dự án tại thời điểm kiểm tra của Kiểm toán Nhà nước (tháng 5/2019) chỉ mới đạt từ 19-28% nhưng đã sử dụng hết từ 37-53% quỹ thời gian theo cam kết trong hợp đồng.
Theo Kiểm toán Nhà nước, nguyên nhân của việc chậm tiến độ thực hiện dự án chủ yếu là do chậm trễ trong việc lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu XL-02; chậm phê duyệt điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nên thiếu vốn dẫn đến việc thanh toán cho nhà thầu bị trì hoãn, quá hạn thanh toán theo quy định của hợp đồng.
Ngoài ra việc chậm tiến độ dự án còn do vướng mặt bằng thi công (tại gói thầu XL-01), vướng công trình ngầm (gói thầu XL-03), tạm dừng thi công do Ngân hàng Thế giới xét duyệt sau công tác đầu thầu, xác định làm rõ tính độc lập về pháp lý tài chính của nhà thầu.
“Việc chậm trễ trong tổ chức lựa chọn nhà thầu đối với các gói thầu xây lắp XL-02, XL-07, XL-08 đã ảnh hướng đến tiến độ dự án, làm tăng chi phí đầu tư, gây lãng phí nguồn lực do phải trả chi phí cam kết rút vốn cho thời gian chậm trễ với số tiền ước tính là 2,556 triệu USD (tương đương gần 57,2 tỷ đồng).
Ngoài ra thiệt hại do chênh lệch tỷ giá đối với số tiền đã tạm ứng cho gói thầu XL-04 do chuyển đổi nguồn vốn đầu tư là hơn 2,5 tỷ đồng”, Thông báo số 150/TB-KTNN của Kiểm toán Nhà nước nêu rõ.
Từ đó Kiểm toán Nhà nước đề nghị chủ đầu tư chấn chỉnh, khắc phục các hạn chế trong kiểm soát, giám sát, nghiệm thu, thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành; chấn chỉnh việc lựa chọn nhà thầu, yêu cầu đơn vị tư vấn đầu thầu thực hiện việc lựa chọn nhà thầu bảo đảm thời gian theo quy đinh.
Đối với việc xác định trách nhiệm cá nhân, tập thể có liên quan, Kiểm toán Nhà nước đề nghị xử lý theo quy định của hợp đồng đối với nhà thầu tư vấn giam sát về các tồn tại, sai sót trong quản lý chất lượng, nghiệm thu khối lượng hoàn thành chưa đảm bảo chính xác, trong lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu XL-07, XL-08.
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng Hạ tầng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức rút kinh nghiệm đối với tồn tại, thiếu sót trong việc lập kế hoạch vốn IBRD không giải ngân được nhưng vẫn phải chịu số phí cam kết và lãi vay.
Lùi thời gian thực hiện
Trước vướng mắc phát sinh, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã kiến nghị điều chỉnh thời gian thực hiện dự án. Cụ thể, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh thời gian thực hiện dự án vệ sinh môi trường thành phố giai đoạn 2 đến năm 2029.
Ủy ban Nhân dân thành phố cũng kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo đạo các bộ, ngành liên quan thực hiện điều chỉnh Hiệp định vay, Hiệp định Tín dụng của Dự án đến hết tháng 6/2024 sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh thời gian thực hiện dự án.
Theo Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho các gói thầu của dự án, Ngân hàng Thế giới đề nghị đối với các gói thầu xây dưng nhà máy xử lý nước thải áp dụng hình thức hợp đồng thiết kế-xây dựng-vận hành (DBO). Ngoài thời gian xây lắp và vận hành thử nhà máy xử lý nước hải, nhà thầu xây lắp sẽ tiếp tục vận hành nhà máy trong 5 năm.
Hiện nay, các gói thầu của dự án đã hoàn tất lựa chọn nhà thầu và đã triển khai thi công. Riêng gói thầu XL-02 là gói thầu quan trọng nhất đã được chủ đầu tư ký hợp đồng với nhà thầu trúng thầu là Liên danh Acciona-Vinci vào ngày 8/3/2019, thời gian thực hiện là 10 năm.
Tuy nhiên, đến ngày 3/1/2020, chủ đầu tư mới có thể tạm ứng để hợp đồng chính thức có hiệu lực; trong đó, từ năm 2019-2024 hoàn tất thiết kế, thi công và vận hành thử, từ năm 2024 - 2029 vận hành và và bảo dưỡng nhà máy.
Cập nhật tiến độ dự án, theo báo cáo của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, dự án Vệ sinh môi trường thành phố giai đoạn 2 có 27 gói thầu gồm 8 gói thầu xây lắp, 16 gói thầu tư vấn và 3 gói thầu mua sắm.
Trong đó, hiệu lực hợp đồng gói thầu XL-02 “Thiết kế thi công vận hành nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc-Thị Nghè” tính từ ngày 3/1/2020. Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức bàn giao mặt bằng khu đất để xây dựng nhà máy xử lý nước thải vào ngày 23/12/2019. Công việc của các chuyên gia chính mới được trình nộp hồ sơ từ ngày 10/2/2020.
Đối với gói thầu XL-03 (chậm tiến độ), hiện nhà thầu và tư vấn đang hoàn thiện các thủ tục để gia hạn hợp đồng, khối lượng thực hiện đạt 50%. Gói thầu XL-04 đang tổ chức thi công, đạt 76%, gói thầu XL-05 đạt 86%, gói thầu XL-07 đạt 32% còn gói thầu XL-08 chưa thể thi công do đang vướng mặt bằng./.