Sống thử trước hôn nhân: Khi đường ai nấy đi, chia tài sản và con chung thế nào?

Khi quyết định chung sống mà không kết hôn, các chủ thể trong mối quan hệ này cần nắm rõ các quy định về giao dịch dân sự, tài sản chung, và quyền lợi của trẻ em ngoài giá thú để tự bảo vệ mình.

Ngày nay, việc sống thử trước hôn nhân ngày càng phổ biến, nhiều cặp đôi chọn chia sẻ mái nhà, góp tiền mua sắm tài sản, thậm chí có con chung. Thế nhưng, khi tình cảm rạn nứt, hệ quả pháp lý để lại không hề đơn giản.

Đằng sau những cuộc chia tay là hàng loạt tranh chấp về tài sản, quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng, điều mà không ít người trẻ hoàn toàn không lường trước, bởi pháp luật Việt Nam hiện nay không cấm sống thử trước hôn nhân, nhưng không công nhận quan hệ đó là hôn nhân hợp pháp.

 Sống thử trước hôn nhân ngày càng phổ biến, nhưng khi chia tay dễ phát sinh các tranh chấp do pháp luật không công nhận như hôn nhân hợp pháp. Ảnh minh họa AI.

Sống thử trước hôn nhân ngày càng phổ biến, nhưng khi chia tay dễ phát sinh các tranh chấp do pháp luật không công nhận như hôn nhân hợp pháp. Ảnh minh họa AI.

Báo Pháp Luật TP.HCM đã trao đổi với luật sư Phan Mậu Ninh, Đoàn Luật sư TP.HCM để làm rõ những vấn đề pháp lý xoay quanh việc sống thử trước hôn nhân.

 Luật sư Phan Mậu Ninh

Luật sư Phan Mậu Ninh

Tài sản hình thành trong thời gian sống thử

. Phóng viên: Thưa luật sư, trong thời gian sống thử trước hôn nhân, nếu hai người cùng tạo lập tài sản thì khi chia tay, pháp luật sẽ phân chia thế nào?

+ Luật sư Phan Mậu Ninh, Đoàn Luật sư TP.HCM: Khác với vợ chồng hợp pháp, tài sản của những người sống chung như vợ chồng không được điều chỉnh bởi chế độ tài sản của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Mọi tài sản hình thành trong quá trình sống chung đều được xem là quan hệ dân sự theo BLDS. Nghĩa là ai đứng tên, người đó có lợi thế pháp lý.

Ví dụ, hai người cùng góp tiền mua xe, mua nhà nhưng chỉ một bên đứng tên, thì bên còn lại muốn đòi chia phần thì phải chứng minh được đóng góp. Không giấy tờ, không chứng cứ, khả năng “mất trắng” là rất cao.

Pháp luật không công nhận tài sản hình thành trong thời kỳ chung sống như vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình. Việc phân chia tài sản sẽ áp dụng theo pháp luật dân sự, cụ thể là các quy định về sở hữu chung và chia tài sản chung.

. Vậy làm sao để chứng minh phần tài sản là tài sản chung?

+ Việc chứng minh tài sản chung là vấn đề pháp lý khó khăn nhất, đặc biệt khi tài sản chỉ đứng tên một người (ví dụ: sổ đỏ, đăng ký xe...).

Để chứng minh đó là tài sản chung, cần có các bằng chứng sau: Biên lai, chứng từ giao dịch chứng minh cho việc góp tiền mua tài sản, sửa chữa, nâng cấp, cải tạo; sao kê ngân hàng, tin nhắn chuyển khoản…

Bên cạnh đó, vai trò của thỏa thuận bằng văn bản cũng cần lưu ý. Việc lập thỏa thuận bằng văn bản (có thể có công chứng, chứng thực) trước hoặc trong thời gian chung sống là cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi.

Nội dung của thỏa thuận nên bao gồm liệt kê tài sản chung và tài sản riêng, xác định tỉ lệ đóng góp (công sức, tiền bạc) vào tài sản chung, phương thức giải quyết, phân chia tài sản nếu chấm dứt chung sống hoặc khi một trong hai bên muốn xử lý tài sản.

Quyền và nghĩa vụ đối với con chung

. Với những cặp đôi không đăng ký kết hôn nhưng có con, cha mẹ sẽ có quyền và nghĩa vụ gì?

+ Về con cái, pháp luật bảo vệ quyền lợi của trẻ em; do đó mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Trẻ sinh ra trong quan hệ sống thử vẫn có quyền khai sinh, nuôi dưỡng, chăm sóc đầy đủ.

Dù không đăng ký kết hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với con chung theo Luật Hôn nhân và Gia đình và BLDS.

Các quyền và nghĩa vụ bao gồm: nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái, giám hộ, đại diện theo pháp luật cho con cái, cùng nhau cấp dưỡng cho con cái khi cần thiết.

. Khi chia tay, việc nuôi con và cấp dưỡng được pháp luật giải quyết trên nguyên tắc nào?

+ Khi chấm dứt chung sống, vấn đề quyền nuôi con và cấp dưỡng sẽ được giải quyết như sau:

Cha mẹ tự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con. Nếu không thỏa thuận được, Tòa án sẽ quyết định dựa trên lợi ích tốt nhất của con về mọi mặt (môi trường sống, thu nhập, đạo đức của cha mẹ).

Người không trực tiếp nuôi con (cha hoặc mẹ) có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cho đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc có khả năng lao động, tự nuôi sống bản thân. Mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định dựa trên nhu cầu của con và khả năng tài chính của người cấp dưỡng.

Những lưu ý

. Luật sư có thể chia sẻ một số trường hợp điển hình về tranh chấp tài sản, con cái trong quan hệ sống thử trước hôn nhân để cảnh báo và đưa ra lời khuyên cho các bạn trẻ?

+ Trong thực tế tôi từng gặp nhiều trường hợp tranh chấp rất đáng tiếc giữa các cặp đôi sống thử.

Một vụ điển hình là anh A và chị B sống chung 8 năm nhưng không đăng ký kết hôn. Năm 2017, hai người cùng góp mỗi người 1 tỉ đồng và vay ngân hàng 2 tỉ để mua căn nhà trị giá 4 tỉ. Giấy chứng nhận chỉ đứng tên anh A vì anh đủ điều kiện vay.

Đến năm 2024, khi chia tay, anh A muốn giữ toàn bộ căn nhà và chỉ trả lại chị B 1 tỉ đồng - phần tiền góp ban đầu, không tính giá trị tăng thêm. Hiện căn nhà đã lên tới 7 tỉ đồng.

Trong trường hợp này, chị B rất rủi ro vì khó chứng minh phần góp của mình cũng như việc trả nợ, đóng góp sinh hoạt để được hưởng giá trị chênh lệch.

Một trường hợp khác là chị C và anh D sống chung, có con 3 tuổi nhưng chưa làm giấy khai sinh có tên cha. Khi chia tay, anh D không muốn nhận con để tránh nghĩa vụ cấp dưỡng và trách nhiệm nuôi dưỡng. Hậu quả là đứa trẻ không có quyền thừa kế, quyền được cấp dưỡng và nhận cha.

Pháp luật Việt Nam không công nhận sống thử là hôn nhân hợp pháp. Do đó, khi quyết định chung sống mà không đăng ký kết hôn, các bên cần có thỏa thuận rõ ràng về tài sản, quyền nuôi con và lưu giữ chứng cứ pháp lý để tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

HUỲNH THƠ

Nguồn PLO: https://plo.vn/video/song-thu-truoc-hon-nhan-khi-duong-ai-nay-di-chia-tai-san-va-con-chung-the-nao-post872647.html