Sử dụng Tecovirimat điều trị bệnh đậu mùa khỉ

Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào được phê duyệt cho các trường hợp nhiễm vi rút đậu mùa khỉ. Tuy nhiên, thuốc kháng vi rút sử dụng cho bệnh nhân đậu mùa có thể chứng minh lợi ích chống lại bệnh đậu mùa khỉ. Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho phép sử dụng Tecovirimat để điều trị ban đầu hoặc sớm theo loại thuốc mới nghiên cứu tiếp cận mở rộng (EA-IND).

Nhiều người bị nhiễm vi rút đậu mùa khỉ có một đợt bệnh nhẹ, tự giới hạn trong trường hợp không có liệu pháp điều trị cụ thể. Tuy nhiên, tiên lượng cho bệnh đậu mùa khỉ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng tiêm chủng trước đó, tình trạng sức khỏe ban đầu, các bệnh đồng thời và bệnh đi kèm.

Tecovirimat (còn được gọi là TPOXX hoặc ST-246) là một loại thuốc kháng vi rút được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận để điều trị bệnh đậu mùa ở người lớn và trẻ em do vi rút Variola gây ra.

Tuy nhiên, việc sử dụng nó cho các bệnh nhiễm trùng do Orthopoxvirus, bao gồm cả bệnh đậu mùa khỉ, không được FDA chấp thuận. Các nghiên cứu trên nhiều loài động vật khác nhau đã chỉ ra rằng Tecovirimat có hiệu quả trong điều trị bệnh do Orthopoxvirus gây ra. Các thử nghiệm lâm sàng trên người cho thấy thuốc an toàn và có ít tác dụng phụ.

CDC cho phép sử dụng Tecovirimat theo loại thuốc mới nghiên cứu tiếp cận mở rộng (EA-IND) để điều trị ban đầu hoặc sớm theo kinh nghiệm đối với các trường hợp nhiễm vi rút Orthopoxvirus bao gồm bệnh đậu mùa khỉ ở người lớn và trẻ em ở mọi lứa tuổi.

Theo CDC, Tecovirimat có thể được xem xét để điều trị ở những người bị nhiễm vi rút đậu mùa khỉ với bệnh nặng như bệnh xuất huyết, tổn thương vùng kín, nhiễm trùng huyết, viêm não hoặc các tình trạng khác cần nhập viện. Những người có nguy cơ mắc bệnh nặng như:

Những người có tình trạng suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV/AIDS, bệnh bạch cầu, ung thư hạch bạch huyết, bệnh ác tính, cấy ghép cơ quan rắn, điều trị bằng chất alkyl hóa, chất chống chuyển hóa, bức xạ, chất ức chế yếu tố hoại tử khối u, corticosteroid liều cao, người được ghép tế bào gốc tạo máu < 24 tháng sau ghép hoặc ≥ 24 tháng bị bệnh ghép với vật chủ hoặc bệnh tái phát hoặc mắc bệnh tự miễn với suy giảm miễn dịch.

Trẻ em, đặc biệt là bệnh nhân dưới 8 tuổi. Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú. Những người có tiền sử hoặc đang có bệnh viêm da dị ứng, những người có tình trạng viêm da tróc vảy như chàm, bỏng, chốc lở, nhiễm vi rút varicella zoster, nhiễm vi rút herpes simplex, mụn trứng cá nặng, viêm da nghiêm trọng với các vùng da bị bong tróc rộng, bệnh vẩy nến hoặc bệnh dày sừng nang lông.

Những người bị một hoặc nhiều biến chứng như nhiễm trùng da thứ phát do vi khuẩn; viêm dạ dày ruột có buồn nôn, nôn mửa nghiêm trọng, tiêu chảy hoặc mất nước; viêm phế quản phổi; bệnh đồng thời hoặc các bệnh đi kèm khác.

Nhiễm trùng dị ứng liên quan đến việc cấy ghép vào mắt, miệng hoặc các vùng giải phẫu khác, nơi nhiễm vi rút đậu mùa khỉ có thể tạo thành một mối nguy hiểm đặc biệt như bộ phận sinh dục hoặc hậu môn.

Hiệu quả của Tecovirimat

Trong các nghiên cứu trên động vật, Tecovirimat đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ tử vong do nhiễm các loại Orthopoxvirus khi được sử dụng sớm trong đợt bệnh. Ở người, hiệu quả bị giới hạn ở nồng độ thuốc trong máu và một số nghiên cứu điển hình. Một loạt trường hợp những người bị bệnh đậu mùa khỉ, trong đó có một bệnh nhân được điều trị bằng Tecovirimat, cho thấy rằng thuốc có thể rút ngắn thời gian bệnh và sự phát tán của vi rút.

Những người không đủ điều kiện để được điều trị bằng Tecovirimat theo EA-IND bao gồm bệnh nhân hoặc người được ủy quyền họ không đồng ý và từ chối điều trị bằng Tecovirimat. Bệnh nhân đã biết dị ứng với Tecovirimat hoặc tá dược của Tecovirimat.

Các dạng thuốc Tecovirimat

Tecovirimat có sẵn dưới dạng viên nang uống (200 mg) và tiêm để tiêm tĩnh mạch (IV). Sự hấp thu thuốc dạng uống phụ thuộc vào việc hấp thụ đồng thời một bữa ăn đầy đủ chất béo.

Không nên dùng Tecovirimat IV cho bệnh nhân suy thận nặng. Thuốc dạng uống vẫn là một lựa chọn cho nhóm này. Tecovirimat IV nên được sử dụng thận trọng cho bệnh nhân suy thận trung bình hoặc nhẹ, bệnh nhân dưới 2 tuổi với chức năng ống thận chưa trưởng thành.

Phản ứng phụ khi dùng thuốc uống, các triệu chứng như nhức đầu (12%), buồn nôn (5%), đau bụng (2%) và nôn (2%). Giảm bạch cầu trung tính được tìm thấy ở 1 người tham gia nghiên cứu. Tiêm tĩnh mạch gây đau nơi tiêm (73%), sưng tấy nơi tiêm (39%), ban đỏ nơi tiêm (23%), thoát mạch vị trí tiêm (19%) và nhức đầu (15%).

Tecovirimat chưa được nghiên cứu ở phụ nữ có thai và cho con bú, nhưng chúng không bị loại trừ khỏi điều trị nếu thấy phù hợp sau khi đánh giá lâm sàng cẩn thận và thảo luận về rủi ro, lợi ích với bệnh nhân. Không có dữ liệu trên người để xác định sự hiện diện hay không có nguy cơ gây độc cho thai nhi liên quan đến Tecovirimat, ảnh hưởng đến sản xuất sữa, sự hiện diện của thuốc trong sữa mẹ hoặc ảnh hưởng trên trẻ bú sữa mẹ. Không có độc tính đối với thai nhi được tìm thấy trong các nghiên cứu trên động vật, mặc dù Tecovirimat đã được phát hiện ở một lượng nhỏ trong sữa.

Tecovirimat đã được sử dụng cho trẻ em 28 tháng tuổi mà không có tác dụng phụ do thuốc gây ra, nhưng chưa có nghiên cứu lâm sàng nào được thực hiện trên trẻ em. Theo dõi chức năng thận được khuyến nghị ở bệnh nhi < 2 tuổi vì các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy khả năng gây độc cho thận ở mức độ phơi nhiễm hydroxypropyl-β-cyclodextrin rất cao, một thành phần trong Tecovirimat IV.

CDC cùng với FDA đã cung cấp phương pháp điều trị Tecovirimat cho bệnh nhân mắc bệnh đậu mùa khỉ theo loại thuốc mới nghiên cứu tiếp cận mở rộng tại Hoa kỳ.

BS. LÊ ĐĂNG NGẠN

(Cập nhật tài liệu của CDC ngày 5-8-2022)

Nguồn Ấp Bắc: http://baoapbac.vn/suc-khoe-y-te/202208/su-dung-tecovirimat-dieu-tri-benh-dau-mua-khi-957105/