Sự khác nhau của khương hoàng và uất kim

Nghệ vàng, một cây dược liệu cung cấp hai vị thuốc khương hoàng và uất kim có tính chất thuốc khác nhau, cần phân biệt rõ vì một số tài liệu của Việt Nam đã gộp chung khương hoàng và uất kim trong một tên khoa học Rhizoma Curcumae longae; với cùng tính vị, quy kinh; công năng, chủ trị; cách dùng và liều lượng.

Hoặc gộp chung trong nhóm thuốc hoạt huyết khử ứ.

Thầy thuốc cần phân biệt rõ sự khác nhau về tính chất của hai vị thuốc để khi dùng điều trị đạt được hiệu quả cao:

Khương hoàng vị cay, đắng tính ấm; vào 2 đường kinh Tỳ và Can.

Uất kim vị cay, đắng; tính lạnh; vào 3 đường kinh Can, Tâm và Phế.

Thân rễ nghệ vàng (củ nghệ vàng) tên dược liệu khương hoàng, tính ấm (ôn); vị cay (tân), đắng (khổ); vào các đường kinh Tỳ và Can.

Công năng: Hành khí, phá huyết, chỉ thống sinh cơ.

Chủ trị: Kinh nguyệt không đều, bế kinh, đau tức sườn ngực, khó thở. Phụ nữ đau bụng sau đẻ do sản dịch chưa sạch; kết hòn cục (trưng hà); hoặc ứ huyết do sang chấn (tụ máu do chấn thương); viêm loét dạ dày, vết thương lâu liền miệng.

Liều lượng: Ngày dùng 6g - 12g. Dạng thuốc sắc hoặc bột. Dùng ngoài dưới dạng dịch tươi bôi vào vết thương, để chóng lên da non.

Uất kim là phần rễ phình ra thành củ của cây nghệ vàng.

Uất kim là phần rễ phình ra thành củ của cây nghệ vàng.

Rễ nghệ, tên dược liệu uất kim: Tính lạnh (hàn); vị cay, đắng; vào các đường kinh Can, Tâm và Phế.

Công năng: Hành khí hóa ứ; thanh tâm giải uất; lợi mật hết hoàng đản.

Chủ trị: Bế kinh, thống kinh; ngực bụng trướng đau; đau như kim chích; hôn mê nông do bệnh nhiệt; phát cuồng, điên giản; hoàng đản, nước tiểu đỏ.

Liều lượng: 3g-9g/ ngày.

Thầy thuốc lựa chọn đúng tính chất của thuốc thích ứng với bệnh, sẽ quyết định hiệu quả trong điều trị. Cụ thể tính chất của thuốc gồm 4 loại (tứ khí):

Hàn (lạnh), nhiệt (nóng), ôn (ấm) và lương (mát).

Các vị thuốc lạnh, mát thuộc Âm; gọi là Âm dược.

Các vị thuốc nóng, ấm thuộc Dương; gọi là Dương dược.

Âm dược dùng chữa các chứng bệnh nóng, ấm.

Dương dược dùng chữa chứng bệnh lạnh, mát.

Ngoài ra còn có những vị thuốc có tính bình, dùng được cho cả triệu chứng bệnh nóng và lạnh. Cụ thể:

Đau dạ dày (Vị quản thống) thể Tỳ Vị hư hàn với các triệu chứng đau lâm râm vùng thượng vị, thích nóng, sợ lạnh; thời tiết nóng hay chườm nóng thì giảm đau, gặp lạnh đau tăng, ấn vào dễ chịu, nôn ra nước trong, người mỏi mệt; rêu lưỡi trắng mỏng; mạch hư trì. Việc dùng bột khương hoàng để điều trị sẽ thu được hiệu quả rất cao (Tỳ vị hư hàn sẽ được tính ấm của khương hoàng giúp phục hồi).

Nhưng, nếu đau dạ dày do tỳ vị âm hư với các triệu chứng vùng thượng vị đau có cảm giác nóng rát; người bức rức; miệng ráo họng khô, khát đòi uống nước; ăn kém; đi tiêu phân khô; lưỡi đỏ, ít rêu; mạch tế sác hoặc tế huyền. Nếu vẫn dùng khương hoàng để điều trị thì bệnh sẽ nặng thêm (âm hư đã nội nhiệt, gặp tính ấm của Khương hoàng thêm tác hại, như kinh điển đã nêu).

Tâm trạng u uất: uất ban đầu làm khí trệ đọng, uất lâu dài hóa hỏa. Trường hợp này, không dùng khương hoàng có tính ấm để điều trị; chỉ thích hợp với uất kim có tính lạnh

Suy nghĩ uất ức, lâu ngày sinh đàm thấp; đàm thấp bức bách cổ họng dẫn đến có cảm giác như có hạt mơ vướng mắc trong cổ họng; nhưng không thể khạc ra hoặc nuốt xuống. Đông y gọi là mai hạch khí

Chủ chứng: Khí nghịch làm họng vướng mắc, cảm giác trong họng có vật làm nghẽn, không thể nuốt xuống hoặc khạc ra; ngực buồn nôn; rêu lưỡi trắng trơn; mạch huyền hoạt.

Chẩn đoán: Đàm kết do uất ức.

Phép chữa: Lý khí hóa đàm.

Bài thuốc “Bán hạ hậu phác thang gia vị”: Bán hạ chế 10g, hậu phác 6g, phục linh - 15g, chỉ xác 6g, uất kim 10g, tô diệp 10g, cát cánh 9g, huyền sâm 12g. Sắc uống.

Lương y: Nguyễn Ngữ

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/su-khac-nhau-cua-khuong-hoang-va-uat-kim-n175868.html