Sửa Luật Dầu khí: Nhà đầu tư e ngại nếu hợp đồng dầu khí chỉ có tiếng Việt
Theo Dự thảo Luật Dầu khí, Hợp đồng dầu khí dự tính chỉ dùng tiếng Việt nếu toàn nhà thầu trong nước và sẽ dịch sang tiếng Anh khi cần. Hiện tại, hợp đồng dầu khí sử dụng ngôn ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh song song.
Chỉ dùng tiếng Anh nếu cần
Trong lần sửa đổi Luật Dầu khí, Hợp đồng dầu khí là một nội dung nhận được sự quan tâm rất lớn của cơ quan quản lý, nhà làm luật, các chuyên gia, doanh nghiệp bởi đây là văn bản pháp lý quan trọng gắn liền với quá trình triển khai các hoạt động sau đó.
Đến nay, Dự thảo Luật Dầu khí đã tiếp thu, sửa đổi nhiều vấn đề trong Hợp đồng dầu khí, nhưng vẫn còn một số nội dung cần tiếp tục xem xét, chỉnh lý để Luật khi được ban hành sẽ khả thi, triển khai được trong thực tế và không tạo ra những rào cản mới.
Cụ thể, theo khoản 1, Điều 34 Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) vẫn đang quy định ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng dầu khí là tiếng Việt trong trường hợp tại thời điểm ký Hợp đồng dầu khí mà nhà thầu được lựa chọn là Việt Nam.
Dù được giải thích rằng, Việt Nam sẵn sàng sử dụng hai ngôn ngữ trong trường hợp Hợp đồng được ký kết với nhà thầu nước ngoài ở khoản 2 điều này, nhưng các chuyên gia, luật gia và doanh nghiệp vẫn cho rằng, quy định ngôn ngữ trong Hợp đồng dầu khí vẫn chưa phù hợp.
Ông Nguyễn Minh, Trưởng Ban Pháp lý và Thương mại Eni Việt Nam cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài muốn có hai ngôn ngữ khi ký kết Hợp đồng dầu khí bởi nếu Hợp đồng dầu khí giữa hai công ty Việt Nam chỉ là ngôn ngữ tiếng Việt thì đến khi công ty nước ngoài muốn tham gia sẽ phải chỉnh sửa lại rất khó khăn.
“Các nhà đầu tư nước ngoài có sự e ngại khi tham gia vào Hợp đồng dầu khí vốn chỉ dùng ngôn ngữ tiếng Việt trước đó, hoặc được dịch sang tiếng Anh, nhưng lại không có các bên ký”, ông Minh nhận xét.
Đồng quan điểm trên, ông Vương Minh Đức, Giám đốc Kỹ thuật và An toàn sức khỏe môi trường Công ty TNHH Thăm dò và Khai thác Dầu khí ExxonMobil Vietnam và ông Đỗ Ngọc Thanh, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Dầu khí Việt Nhật cũng cho rằng, hoạt động của ngành dầu khí trên thế giới xoay quanh ngôn ngữ tiếng Anh. Trong đó, có rất nhiều từ ngữ chuyên ngành có thể sẽ không thể giải nghĩa một cách chính xác trong tiếng Việt.
Hợp đồng dầu khí được ký kết ngay từ ban đầu bằng tiếng Anh là rất cần thiết và đã trở thành một thông lệ quốc tế, là một điểm tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Ngược lại, nếu không có tiếng Anh ngay từ đầu thì sẽ sẽ trở thành một rào cản mới trong thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành dầu khí.
Thực tế, đặc thù của hoạt động dầu khí là mang tính quốc tế cao. Các hợp đồng dầu khí trước đây vẫn sử dụng ngôn ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh song song mà không có vướng mắc, khó khăn gì. Vì vậy, đây không phải là một điểm cần phải sửa đổi trong Luật Dầu khí.
Bởi vậy, việc Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) quy định như trên được coi là bước lùi trong cơ chế chính sách đối với hoạt động dầu khí. Thậm chí không phù hợp với việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về dầu khí nói riêng, không cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực này.
Do đó, để phù hợp với đặc điểm của dầu khí là hoạt động mang tính chuyên ngành và quốc tế cao, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà thầu dầu khí tiềm năng tiếp cận với Hợp đồng dầu khí hiện hữu, tại thời điểm ký kết, Hợp đồng dầu khí nên được dung bằng ngôn ngữ nước ngoài thông dụng (thường là tiếng Anh) mà không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà thầu.
Tránh chồng chéo, khả thi và thực tế
Theo các chuyên gia, nhằm giải quyết xung đột, chồng chéo trong quá trình áp dụng Luật Dầu khí với Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật QLSDVNN), việc bổ sung quy định tại Điều 36 Dự thảo luật về quy trình thực hiện chuyển nhượng quyền lợi tham gia trong trường hợp Petrovietnam/doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam là Bên chuyển nhượng sẽ được thực hiện theo Luật Dầu khí là rất cần thiết.
Thực tế triển khai việc chuyển nhượng này cho thấy, quy định nội dung này vào Luật QLSDVNN là không phù hợp vì đặc điểm của “tài sản dầu khí” chào bán có sự khác biệt lớn với các hàng hóa khác. Vì thế, việc phải tổ chức chào hàng cạnh tranh dựa trên kết quả thẩm định của một tổ chức độc lập về giá trị khởi điểm của tài sản là không khả thi và phù hợp.
Nguyên do không có tổ chức nào có thể định giá được tài sản dầu khí này.
Cạnh đó, việc thuê các tổ chức thẩm định giá trị tài sản chào bán và tổ chức chào hàng cạnh tranh sẽ khó tránh khỏi việc không đảm bảo các yếu tố về quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, với quy định liên quan đến quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong hoạt động dầu khí (quản lý vốn của Petrovietnam và doanh nghiệp (DN) 100% vốn của Petrovietnam trong thực hiện đầu tư các dự án dầu khí), thì Dự thảo Luật (Điều 63 và Điều 66) chỉ có quy định thẩm quyền của Hội đồng thành viên và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp liên quan đến việc sử dụng vốn của Petrovietnam và Công ty 100% vốn của Petrovietnam tham gia các dự án/hoạt động dầu khí.
Cụ thể, giao toàn bộ việc phê duyệt sử dụng vốn của Petrovietnam và doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam cho HĐTV Petrovietnam (Điều 63 Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi); và trách nhiệm (thẩm quyền) của UBQLVNN chỉ là gửi ý kiến về việc sử dụng vốn của Petrovietnam để Bộ Công thương xem xét thẩm định (Điều 66 Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi).
Quy định trên không rõ về trình tự, thủ tục, hồ sơ để HĐTV Petrovietnam phê duyệt trong trường hợp Petrovietnam/DN 100% vốn của Petrovietnam thực hiện hoạt động dầu khí theo các giai đoạn của Hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) và dự án dầu khí.
Đồng thời quy định vây cũng không rõ ràng về các bước, trình tự để UBQLVNN tham gia ý kiến về việc sử dụng vốn của Petrovietnam tại các dự án, hoạt động dầu khí.
Đơn cử, nếu trong trường hợp UBQLVNN có ý kiến “không đồng ý” hoặc “việc sử dụng vốn của Petrovietnam cần xem xét lại” thì Bộ Công thương có thẩm định và quyết định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được không?
Thêm nữa, khi triển khai dự án dầu khí có sự tham gia của Petrovietnam và doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam thì Petrovietnam vẫn phải đồng thời thực hiện 2 quy trình.
Đó là các hồ sơ trình phê duyệt kế hoạch đại cương phát triển mỏ dầu khí (ODP), kế hoạch khai thác sớm mỏ dầu khí (EDP), kế hoạch phát triển mỏ dầu khí (FDP) theo Luật Dầu khí, đồng thời phải trình UBQLVNN hồ sơ về việc phê duyệt phương án vốn cho việc triển khai ODP/EDP/FDP.
Sau khi đã có sự chấp thuận của cả cơ quan quản lý nhà nước về dầu khí và UBQLVNN, Petrovietnam mới thực hiện phê duyệt riêng. Hậu quả của việc này là thời gian trình và phê duyệt sẽ bị kéo dài và chồng chéo.
Tuy hiên, vướng mắc này hiện nay chưa giải quyết được.
TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cũng cho hay, dù đánh giá cao Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) và nhưng vẫn mong những vướng mắc còn tồn tại sẽ tiếp tục được chỉnh lý hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành để Luật Dầu khí sửa đổi sau khi được thông qua thực sự tiến bộ, có khả năng thực thi, đáp ứng kỳ vọng của của Đảng, nhà nước, xã hội và doanh nghiệp.