Sửa Luật Phòng, chống rửa tiền để tăng cường hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Chiều 20/10, Quốc hội nghe Tờ trình về dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
Tờ trình do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng trình bày cho biết, việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền (PCRT) là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác PCRT nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung, phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về tham nhũng, rửa tiền.
Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức "trung bình cao" đến mức "cao".
"Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng", Thống đốc NHNN lý giải.
Luật PCRT được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Trải qua 10 năm thi hành Luật PCRT, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện. Do đó, việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết. Dự án luật gồm 4 chương, 65 điều.
Qua thẩm tra, Ủy ban Kinh tế (UBKT) nhất trí sự cần thiết sửa đổi Luật PCRT năm 2012 với các lý do như đã nêu tại Tờ trình của Chính phủ, nhằm bảo đảm yêu cầu thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng và Nhà nước; đáp ứng yêu cầu hội nhập, thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế, khắc phục những bất cập của luật hiện hành; bảo đảm an ninh, an toàn tài chính, tiền tệ quốc gia trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ; góp phần đẩy mạnh và tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực...
UBKT thống nhất việc quy định các dấu hiệu đáng ngờ bao gồm dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ theo các lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên cần nghiên cứu bao quát cả các lĩnh vực khác thuộc đối tượng báo cáo nhưng chưa được quy định các dấu hiệu đáng ngờ cụ thể (như lĩnh vực luật sư, công chứng, kế toán, kiểm toán, kinh doanh kim loại quý, đá quý…).
Về áp dụng các biện pháp tạm thời (từ Điều 44 đến Điều 46), UBKT cho rằng, Điều 44 của dự thảo Luật quy định về các biện pháp trì hoãn giao dịch đã được thiết kế khá rõ ràng. Tuy nhiên, cần làm rõ thế nào là "có cơ sở hợp lý để nghi ngờ" để quy định cụ thể ngay trong dự thảo luật, bảo đảm không hạn chế quyền con người và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. "Có ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm, điều kiện trì hoãn giao dịch, phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản để minh bạch, rõ ràng hơn và tránh lạm quyền trong thi hành các biện pháp PCRT", Chủ nhiệm UBKT Vũ Hồng Thanh lưu ý.