Tam Cờ - Phố của đền đài miếu mạo
Đền thờ nhà bà Lý Hưng:
Từ đền Hạ, đi ngược lên thị xã khoảng chừng một trăm mét hay là một dãy phố, ở bên phải đối diện đầu chợ Tam Cờ cũ, còn có một điện thờ của tư nhân, đó là điện thờ của nhà ông bà Lý Hưng, đây là một điện thờ của gia đình. Thời Pháp điện này cũng to lắm, con nhang đệ tử, nhất là bà con đi chợ Tam Cờ cũng hay cúng bái, lên đồng ở đây. Khi tiêu thổ kháng chiến năm 1947, điện này bị phá không cho quân Pháp làm nơi trú quân.
Miếu Đồng Tiền:
Từ điện thờ nhà ông bà Lý Hưng, đi chừng 500 mét nữa qua đầu chợ Tam Cờ mới, nhìn ra sông người ta lại thấy ở bên bờ sông Lô, nơi có dãy ghềnh đá hiểm trở, nước xoáy suốt ngày đêm có một cái miếu nhỏ, nhưng lúc nào cũng ngun ngút khói hương, đó là miếu Đồng Tiền. Tại sao gọi là miếu Đồng Tiền, miếu này dựng năm nào, thờ ai? Không ai biết! Chỉ biết từ xa xưa, những người lái đò dọc, đò ngang trên sông Lô cứ vào những ngày rằm, mồng một thường đến đây cúng bái. Những người chuyên đi buôn bằng đường sông nước cũng nói rằng, nếu không vào dâng lễ, thủy thần ở khu vực này sẽ phạt vạ, khó lòng làm ăn được. Miếu này cũng bị phá năm 1947.
Đền Hạ hay đền Tam Kỳ:
Ngôi đền tiếp theo là Đền Hạ, tên chữ là “Hiệp Thuận linh từ”, gọi là Hiệp Thuận vì đền này nằm trên đất của thôn Hiệp Thuận, xã Ỷ La, thuộc Tổng Trung Môn, huyện Phúc Yên của Phủ Yên Bình từ thời vua Lê Thánh Tông tức thời Hồng Đức, còn Linh từ là từ chỉ đây là ngôi đền thiêng của đất nước. Xa xưa ấy, hàng năm con nhang đệ tử từ kinh thành Hà Nội, các tỉnh lân bang, cứ vào sau tết họ nườm nượp kéo đến ngôi đền này tế lễ.
Thuyết xưa kể rằng: trong một lần theo cha tuần du miền biên ải, hai nàng công chúa là Phương Dung và Ngọc Lân con của vua Hùng đã đến khúc sông này. Vào một đêm bỗng nhiên sấm chớp đùng đùng, hai nàng hiển linh bay về trời, từ đó dân đã lập đền thờ. Đền Hạ ở Tam Cờ thờ Phương Dung, đền Thượng bên làng Tình Húc ở thượng nguồn sông Lô thờ Ngọc Lân công chúa, đây là hai vị thánh mẫu được thờ ở hai ngôi đền này từ thuở khai sinh ra đền cho đến hôm nay. Trải qua bao thăng trầm, ngôi đền Hạ, đặc biệt hệ thống Lưỡng long chầu nguyệt trên mái đền, các đình đao, và bốn chữ “Hiệp Thuận Linh Từ” khắc trên vách lầu hướng ra đường phố khẳng định đền được xây dựng lại năm 1738 vẫn còn rất nguyên vẹn.
Từ khi xây lại đền đến nay, Đền Hạ đã có 282 năm tuổi đời. So với 638 năm đất nước ghi danh hai chữ Tuyên Quang vào trong sử sách, thì Đền Hạ đã có tuổi đời gần bằng nửa tuổi đời hình thành nên địa danh của tỉnh, đó là một con số đáng nể!
Tại sao lại tính đền Hạ có tuổi đời như vậy? vì chính sử ghi lại rằng, năm 1282 khi đất nước đứng trước họa xâm lăng lần thứ hai của quân giặc Nguyên - Mông, triều đình nhà Trần đã cử Chiêu Minh Vương Trần Nhật Duật lên Tuyên Quang làm Tổng trấn nhằm chỉ huy quân dân ngăn chặn bước chân của giặc xâm lăng, vì thế tên Tuyên Quang chính thức có tên từ năm 1282 là như vậy. Bài Minh trên chuông “Bạch Hạc thông thanh quán” còn in rõ trong Tổng tập Thác bản văn khắc Hán - Nôm Việt Nam, sách thơ văn thời Lý - Trần cũng đã dịch minh chứng cho điều này. Còn năm 1738, thời Lê Trung Hưng, dân Tuyên Quang đã xây dựng lại ngôi đền thiêng này cho nguy nga tráng lệ hơn trước, vì thế ngôi đền này có tuổi gần bằng nửa tuổi đời của địa danh Tuyên Quang là vì vậy!
Lịch sử cũng ghi lại rằng, vào thời Minh Mệnh thứ 14 tức là năm 1833, vua cử Tổng trấn Lê Văn Đức cùng Nguyễn Công Trứ lên Tuyên Quang đi dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân do Nùng Văn Vân làm thủ lĩnh. Mấy lần cất quân, mấy lần thất bại. Nghĩ đến việc cầu cứu thần linh, Lê Văn Đức đã vào đền Hạ để cầu khấn xin thánh thần giúp đỡ. Và cuối cùng ông ta đã dẹp được cuộc khởi nghĩa này. Tháng 6-1835 “Vua bèn sai bộ Lễ bàn ban sắc phong, đưa cho quan tỉnh sắm lễ phẩm đến các đền ấy tuyên sắc phong và ban lễ tế” (Đại Nam Thực Lục, trang 685 tập 4). Đền Hạ tiếp tục thờ cúng Thánh Mẫu Phương Dung công chúa như dân vẫn đang thờ cúng.
Năm 1884, khi giặc Pháp tấn công lên Tuyên Quang, triều đình nhà Nguyễn cho Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy liên quân Việt - Thanh chống lại, Lưu Vĩnh Phúc hiến kế tiêu thổ kháng chiến, được triều đình chấp thuận. Nhiều nhà cửa trong phố Tam Cờ bị phá, nhưng Đền Hạ vẫn được giữ nguyên.
Năm Ất Dậu 1945, khi nạn đói xảy ra, dân đói các nơi kéo lên thị xã Tuyên Quang, dân Tam Cờ mang cơm, nước, bánh trái đến tiếp tế cho bà con mình đúng nghĩa đồng bào nghĩa là cùng bọc trứng, nhiều người thoát khỏi nạn đói ở lại thành Tuyên không tha phương cầu thực nữa.
Năm 1946, Đền Hạ là nơi chính quyền cách mạng tổ chức Tuần Lễ vàng, ta đã thu được nhiều vàng do dân ủng hộ, trong đó có bà Liên Phương, người phụ nữ từ lầm than trở thành một tư sản về bánh kẹo, đã đóng góp một lượng vàng lớn cho cách mạng.
Năm 1947, lại một cuộc tiêu thổ kháng chiến nữa để chống Pháp, nhà dân và những ngôi đền khác trong phố bị phá sập, Đền Hạ vẫn sừng sững uy nghi trơ gan cùng tuế nguyệt.
Tháng 10/1947, sau khi các chiến sỹ tự vệ thành Tuyên đã tham gia trận địa lôi cây số 7 thành công, Tổng chỉ huy quân đội và dân quân Việt Nam Võ Nguyên Giáp cùng Trung đoàn trưởng trung đoàn 52 Bế Sơn Cương đã đến Đền Hạ gặp và động viên các chiến sỹ tham gia trận đánh này.
Cổng đền Hạ uy nghi cổ kính với đôi liễn ghi lời răn dạy của tiền nhân như sau:
“Lô giang tại kỳ tiền; La Sơn tại kỳ hậu
Nguy nga thiên cổ miễu; Quốc tộ phúc tâm dân”.
Có người dịch: phía trước đền Hạ là dòng sông Lô, phía sau đền Hạ là dãy núi Là, đây là ngôi đền cổ nguy nga và tráng lệ, đất nước có vững vàng là do lòng dân.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, có thời gian bị coi là nơi hành nghề mê tín dị đoan, dẫn tới bị dẹp bỏ. Nhưng với những giá trị văn hóa, lịch sử, năm 1994 đền Hạ được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích cấp quốc gia. Ngày nay nhân dân thành phố, con nhang đệ tử khắp nơi lại về đây du ngoạn và thắp hương thờ thánh mẫu, làm cho Tam Cờ ngày thêm sinh động.
Vậy đấy, chỉ một quãng đường hơn một cây số, phố ngoài của Tam Cờ đã có tới 7 nơi thờ cúng thần thánh, đó còn chưa kể đến một ngôi đình gọi là đình Tam Cờ mà năm 1924 vẫn còn, sau đó nó bị phá bỏ. Đền, Miếu đó là những địa chỉ để góp phần làm nên một địa danh Tam Cờ cổ kính.