Tam quốc diễn nghĩa: Nhờ người này, Tào Tháo có thể ra lệnh sai khiến chư hầu, làm chủ Trung Nguyên
Có nhiều ý kiến cho rằng tập đoàn mưu sĩ dưới tay Tào Tháo đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp vị quân chủ này gây dựng cơ đồ. Tuy nhiên, nếu không có Hán Hiến Đế trong tay Tào Tháo chưa chắc đã làm nên bá nghiệp.
Tào Tháo (155-220) là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt nền móng hình thành Tào Ngụy thời Tam quốc. Tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung đưa ra quan điểm phê phán Tào Tháo nhưng cũng có những người không ngớt lời khen. Danh thần Đông Hán Kiều Huyền nói với Tào: “Thiên hạ sắp đại loạn, chỉ có bậc nhân tài kiệt xuất mới có thể đứng ra giải cứu thiên hạ. Lẽ nào người đó chính là các hạ?”.
Tào Tháo bị nhiều người coi là đệ nhất gian hùng.
Nhà phân tích thời Đông Hán, Hứa Thiệu cũng từng nhận định: “Tào Tháo là năng thần trị thiên hạ, là gian hùng thời loạn thế”.
Nhắc tới sự nghiệp của Tào Tháo, có nhiều ý kiến cho rằng tập đoàn mưu sĩ dưới tay ông đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp vị quân chủ này gây dựng cơ đồ.
Vào giai đoạn đầu, tập đoàn mưu sĩ dưới tay Tào Ngụy có 5 nhân vật nổi bật hơn cả. Đó là Tuân Úc, Tuân Du, Giả Hủ, Quách Gia và Trình Dục. Những người này được xếp vào hàng 5 đại mưu sĩ trong buổi đầu khi Tào Tháo bắt đầu gây dựng sự nghiệp.
Sau này, tập đoàn chính trị Tào Ngụy còn có thêm 3 mưu sĩ nổi bật khác là Lưu Diệp, Tưởng Tế và Tư Mã Ý.
Tuy nhiên, để Tào Tháo có thể ban ra chính lệnh để sai khiến chư hầu, làm chủ Trung Nguyên, chiếm phần lớn nhất và có thế lực mạnh nhất trong các chư hầu. Đó là nhờ vào việc Tào Tháo nắm được thiên tử trong tay.
Giữ lấy thiên tử, củng cố thế lực
Sau khi Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố giết năm 192, thủ hạ là Lý Thôi và Quách Dĩ mang quân đánh báo thù, đánh chiếm Trường An, giết Vương Doãn và đuổi Lã Bố. Hai người chia nhau nắm quyền ở Trường An, Hán Hiến Đế vẫn bị khống chế như trước.
Cảnh trong phim Tam quốc diễn nghĩa 2010.
Năm 194, trong khi các chư hầu ở Sơn Đông giao tranh kịch liệt thì Lý Thôi và Quách Dĩ cũng phát sinh mâu thuẫn đánh nhau ở Trường An. Chiến sự kéo dài sang năm 195, nhân dân bỏ kinh thành chạy, lực lượng cả hai đều bị yếu đi. Hán Hiến Đế trốn khỏi chỗ Lý và Quách cùng các cận thần chạy về phía đông. Từ đầu năm 196 đến tháng 7 năm đó, sau hành trình dài, Hiến Đế được đưa trở về Lạc Dương từng bị Đổng Trác đốt phá, ở vào hoàn cảnh rất thiếu thốn và có nguy cơ bị các chư hầu tranh đoạt.
Ở Lạc Dương chỉ còn Đổng Thừa và Hàn Tiêm bên cạnh Hiến Đế. Hàn Tiêm có công hộ giá, tỏ ra cậy quyền, lấn ép các đại thần. Để thưởng công các tướng, Hán Hiến Đế phong Hàn Tiêm làm Đại tướng quân, lĩnh ấn Tư lệ hiệu úy, được cầm tiết việt; Đổng Thừa làm Vệ tướng quân, Dương Phụng làm Xa kỵ tướng quân, Trương Dương làm Đại tư mã.
Vệ tướng quân Đổng Thừa không muốn để Hàn Tiêm hoành hành, bèn bí mật sai người đi triệu Tào Tháo đang có binh hùng tướng mạnh ở Duyện châu đến cứu giá.
Tào Tháo khởi đại quân từ Duyện châu tới Lạc Dương, nhờ lực lượng quân sự hùng hậu, nhanh chóng đánh tan lực lượng của Hàn Tiêm. Tiêm thua trận bỏ chạy.
Do Lạc Dương bị tàn phá nặng nề, tháng 9 năm 196, Tào Tháo mang Hán Hiến Đế về Hứa Xương. Trong các đại thần có Đổng Thừa vẫn tiếp tục hộ giá. Dương Phụng từ Khai Phong mang quân tới đánh Tào Tháo để tranh lấy vua Hiến Đế nhưng bị Tào Tháo đánh bại.
Đây là một bước chuyển rất quan trọng trong sự nghiệp của Tào Tháo vì nhà Hán tuy suy nhưng trong lòng mọi người vẫn tôn trọng, việc Tào Tháo nắm được thiên tử sẽ có cớ nhân danh vua ban ra chính lệnh để sai khiến chư hầu.
Hán Hiến Đế.
Tháng 10 năm 196, Hán Hiến Đế đến Hứa Xương. Tào Tháo xong việc bèn quay trở lại Khai Phong đánh Dương Phụng. Phụng thua trận chạy về Dương châu theo Viên Thuật. Tào Tháo chiếm giữ Khai Phong.Nhận thấy Tào Tháo hộ giá có công, Hán Hiến Đế phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân. Hiến Đế vốn muốn phong cho Tào Tháo chức cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho Viên Thiệu.
Từ đó những việc lớn nhỏ trong triều đình nhà Hán đều do Tào Tháo quyết định. Nhiều mệnh lệnh được soạn thảo và ban ra từ phủ Tư không của Tào Tháo. Do tự mình chuyên quyết việc triều đình, Tào Tháo tiếp tục gặp phải sự chống đối ngấm ngầm từ các lực lượng ủng hộ Hán Hiến Đế.
Năm 199, Đổng Thừa không bằng lòng sự chuyên quyền của Tào Tháo, mưu cùng Chung Tập, Ngô Thạc, Vương Phục và Lưu Bị mưu giết Tào Tháo. Khi mưu chưa phát lộ, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật. Khi Lưu Bị đánh thắng Viên Thuật bèn chiếm Từ châu, ly khai Tào Tháo. Mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa cũng bị phát giác. Tào Tháo giết hết cả nhà những người tham gia mưu sự cùng cả Đổng quý nhân là em gái Đổng Thừa, khi đó đang mang thai 5 tháng.
Sau sự kiên đó, Tào Tháo nhân danh thiên tử Hán Hiến Đế ra lệnh sai khiến chư hầu. Bằng tài năng chính trị và quân sự, dần dần Tào Tháo với danh nghĩa "giúp nhà Hán" đã tiêu diệt các thế lực chư hầu cát cứ như Lã Bố (198), Viên Thuật (199), Viên Thiệu (200-207), Lưu Biểu (208), Mã Siêu – Hàn Toại (212), Trương Lỗ (215). Trong vòng gần 20 năm, Tào Tháo làm chủ Trung Nguyên, chiếm phần lớn nhất và có thế lực mạnh nhất trong các chư hầu. Còn hai lực lượng của Tôn Quyền ở Giang Đông và Lưu Bị ở Tây Xuyên, Tào Tháo không thể tiêu diệt, phải cùng nhau chia ba thiên hạ.
Cảnh trong phim Tam quốc diễn nghĩa 2010.
Hán Hiến Đế (181 - 234), húy Lưu Hiệp, tự Bá Hòa, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Đông Hán và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tại vị từ năm 189 đến năm 220, tổng cộng 31 năm.
Là vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại lừng danh Hán triều, Hán Hiến Đế lên ngôi khi nhà Hán đã suy yếu trầm trọng. Ông liên tiếp bị Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ và Tào Tháo khống chế, dùng làm bù nhìn để thực thi quyền lực của bản thân họ. Cuối cùng, ông bị Tào Phi ép thực hiện thiện nhượng, lập ra nhà Tào Ngụy thời Tam quốc.