'Tấm vé thông hành' của quyền lực
Niềm tin, theo phương thức sở hữu, mang lại cảm giác chắc chắn tuyệt đối với những hiểu biết được cho là tối hậu, không thể lay chuyển và đầy thuyết phục.
Theo ngữ cảnh tôn giáo, chính trị, hoặc cá nhân, khái niệm về niềm tin có thể mang hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, phụ thuộc vào việc nó được sử dụng theo phương thức sở hữu hay hiện hữu.
Niềm tin, theo phương thức sở hữu, là việc sở hữu một câu trả lời mà không dựa trên lý lẽ hợp lý. Đó là những ý tưởng được tạo ra bởi người khác, mà ta chấp nhận vì tuân theo họ, thường là một hệ thống hành chính. Niềm tin này mang lại cảm giác chắc chắn nhờ vào uy quyền thực sự (hoặc chỉ là quyền lực do ta tưởng tượng) của hệ thống đó.
Đó cũng là tấm vé để gia nhập một cộng đồng lớn hơn. Nó giúp giảm bớt gánh nặng của việc tự suy nghĩ và đưa ra quyết định cho chính mình. Mọi người trở thành những người hạnh phúc vì họ sở hữu niềm tin đúng đắn.

Niềm tin là sức mạnh vô hình. Ảnh: Benny Hinn Ministries.
Niềm tin, theo phương thức sở hữu, mang lại cảm giác chắc chắn tuyệt đối với những hiểu biết được cho là tối hậu, không thể lay chuyển và đầy thuyết phục bởi uy quyền của những người truyền bá và bảo vệ niềm tin này dường như không thể bị thách thức. Quả thật, ai mà không chọn sự chắc chắn, nếu chỉ cần đổi lấy sự độc lập của mình?
Ban đầu, Đức Chúa Trời là biểu tượng cho điều quý giá nhất mà ta có thể cảm nhận trong lòng. Tuy nhiên, theo tư duy sở hữu, Chúa trở thành một tượng thần. Trong quan niệm tiên tri, tượng thần là một vật mà ta tự tạo ra và dốc sức mạnh của chính mình vào đó, vì vậy, bản thân ta dần trở nên nghèo nàn về mặt nội tại.
Rồi ta nhượng bộ trước sức mạnh mà ta tự tạo ra và, thông qua sự nhượng bộ ấy, ta kết nối với chính mình nhưng ẩn tàng bên dưới vẫn là mất kết nối. Mặc dù ta có thể sở hữu tượng thần vì nó là một sự vật, nhưng khi ta cúi đầu phục tùng, tượng thần sẽ chiếm giữ ta.
Khi Chúa trở thành tượng thần, những phẩm chất của Chúa được cho là chẳng còn liên quan gì đến trải nghiệm cá nhân của ta, giống như các học thuyết chính trị mang tính xa rời cuộc sống của chúng ta. Tượng thần có thể được tôn vinh là Đấng Thương Xót, nhưng dưới danh nghĩa ấy, người ta có thể thực hiện bất kỳ hành động tàn bạo nào, giống như niềm tin mù quáng vào sự đoàn kết không thể khiến mọi người hoài nghi về những hành vi man rợ. Niềm tin theo tư duy sở hữu chỉ là một cây nạng dành cho những ai tìm kiếm sự chắc chắn, muốn có câu trả lời cho cuộc sống mà không dám tự mình khám phá nó.
Trong phương thức tồn tại dựa trên sự hiện hữu, niềm tin là một hiện tượng hoàn toàn khác biệt. Liệu chúng ta có thể sống mà không có niềm tin không? Đứa trẻ nhỏ chẳng phải cần có niềm tin vào bầu sữa mẹ hay sao? Chúng ta chẳng phải cần có niềm tin vào người khác, vào những người chúng ta yêu thương, và vào chính bản thân mình hay sao? Liệu chúng ta có thể sống mà không có niềm tin vào tính hợp lý của những chuẩn mực sống hay không?
Thật vậy, nếu thiếu niềm tin, chúng ta sẽ trở nên cằn cỗi, mất hết hy vọng và sợ hãi đến tận cốt lõi của sự tồn tại. Trong phương thức tồn tại dựa trên sự hiện hữu, niềm tin không chỉ đơn thuần là tin vào “một số ý tưởng cụ thể” (mặc dù cũng có thể là như vậy) mà còn là một định hướng nội tâm, một thái độ với cuộc sống.
Thậm chí, ta nên nói rằng ta hiện hữu trong niềm tin hơn là ta đang sở hữu niềm tin. (Sự phân biệt trong thần học giữa niềm tin là sự tin tưởng [fides quae creditur] và niềm tin như là sự tin tưởng [fides qua creditur] phản ánh một sự khác biệt tương tự giữa bản chất của niềm tin và hành động thể hiện niềm tin.)
Ta có thể sống trong niềm tin đối với chính mình và đối với người khác và người theo đạo cũng có thể sống trong niềm tin đối với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời trong Cựu Ước/Kinh Thánh Cũ, trước hết, là sự phủ nhận các hình tượng thờ phụng và những vị thần mà ta có thể chiếm hữu. Mặc dù được tưởng tượng giống như một vị vua phương Đông, nhưng ngay từ đầu, khái niệm về Đức Chúa Trời vượt ra ngoài khuôn khổ so sánh đó. Đức Chúa Trời không cần phải có tên và không ai được phép tạo ra hình ảnh về Ngài.
Sau này, trong quá trình phát triển của đạo Do Thái và đạo Cơ đốc giáo, họ cố gắng đạt được việc phi tượng thần hóa Đức Chúa Trời hoàn toàn, hoặc đúng hơn là chiến đấu chống lại nguy cơ tượng thần hóa bằng cách giả định rằng ngay cả những phẩm chất của Đức Chúa Trời cũng không thể được phát biểu rõ ràng.
Hoặc một cách triệt để nhất là trong thần bí học Cơ đốc giáo - từ (Pseudo) Dionysius Areopagita đến tác giả ẩn danh của The cloud of Unknowing (Đám mây vô thức) và đến Thầy Eckhart - khái niệm về Đức Chúa Trời có xu hướng trở thành Đấng Duy Nhất, “Thần tính” (Tính Không), từ đó kết hợp quan điểm được thể hiện trong Kinh Vệ-đà và trong chủ nghĩa Platon.
Niềm tin vào Đức Chúa Trời này được đảm bảo thông qua trải nghiệm nội tâm về các phẩm chất thần thánh bên trong chính mình; đó là một quá trình tự sáng tạo liên tục, tích cực, hoặc như Thầy Eckhart diễn đạt, đó là sự tái sinh vĩnh cửu của Chúa Jesus bên trong chúng ta.
Niềm tin của ta vào bản thân, vào người khác, vào nhân loại, vào khả năng của chúng ta trở nên hoàn thiện như một con người cũng mang ý nghĩa của sự chắc chắn, nhưng sự chắc chắn này dựa trên kinh nghiệm cá nhân, không phải do việc phục tùng uy quyền tạo một niềm tin cụ thể.
Đó là sự chắc chắn về một sự thật không thể được chứng minh bằng chứng cứ thuyết phục về mặt lý trí, nhưng lại là sự thật mà ta chắc chắn dựa trên những trải nghiệm riêng, cá nhân của mình. (Trong tiếng Do Thái, emunah có nghĩa là niềm tin, “sự chắc chắn”; amen có nghĩa là “chắc chắn”.)
Nguồn Znews: https://znews.vn/tam-ve-thong-hanh-cua-quyen-luc-post1559573.html