Tầm vóc lịch sử và những bài học còn nguyên giá trị của Hội nghị Geneva

Hội nghị Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam là thành quả của 'trận đánh' lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 70 năm đã trôi qua nhưng những bài học từ đàm phán và ký kết Hiệp định Geneve vẫn còn nguyên giá trị, đóng góp vào công tác đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương

Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương

“Trận đánh” lớn đầu tiên của nền ngoại giao cách mạng

Thắng lợi quan trọng trên chiến trường và sự phát triển của phong trào công nhân thế giới đã mở ra cục diện thuận lợi cho cách mạng nước ta. Ngày 8-5-1954, chỉ một ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Geneva bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương khai mạc. Trải qua 75 ngày đêm đàm phán với 31 phiên họp cùng nhiều cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết. Đây là một cột mốc lịch sử đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, là thành quả của “trận đánh” lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Tại sự kiện lịch sử này, Việt Nam lần đầu tiên tham gia một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Thông qua phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược, đoàn đàm phán của ta đã đạt được những kết quả quan trọng trên bàn hội nghị.

Hiệp định Geneve là văn bản pháp lý quốc tế hết sức quan trọng. Lần đầu tiên, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân đội khỏi lãnh thổ 3 nước Đông Dương.

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Geneva đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta cũng như chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Hiệp định đã mở ra thời kỳ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để đi tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

Thành quả của Hội nghị Geneva còn có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc. Dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã kiên cường đấu tranh, giành được những thắng lợi vang dội cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, buộc các nước lớn công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Việt Nam trở thành tấm gương, nguồn động lực cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập. Thắng lợi của Việt Nam mở màn cho sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, với hàng loạt các nước thuộc địa Á-Phi giành được độc lập trong những năm cuối 1950, đầu 1960.

Cuốn cẩm nang quý báu về trường phái ngoại giao Việt Nam

Đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geveva là cuốn cẩm nang quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá trị về nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao, mang đậm bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Bước vào hội nghị với tư cách của người chiến thắng trên chiến trường Điện Biên Phủ, là một trong hai chủ thể chính của nghị sự, nhưng Việt Nam không có điều kiện tham khảo ý kiến về quá trình thỏa thuận triệu tập, cũng như thành phần tham gia hội nghị. Việc bàn giải pháp cho cuộc chiến Đông Dương cũng không do hai bên trực tiếp tham chiến tiến hành mà do các nước lớn giữ vai trò chính.

Những khó khăn, bất lợi trên đương nhiên ảnh hưởng tới nỗ lực làm chủ và giữ vững thế chủ động tiến công trong tiến trình đàm phán cũng như kết quả cuối cùng của hội nghị. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở Hội nghị Geneva đã cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn giá trị của nguyên tắc độc lập, tự chủ trong các vấn đề quốc tế, rằng các quốc gia đều vì lợi ích của mình, nên chỉ có kiên định độc lập, tự chủ mới giúp chúng ta giữ vững thế chủ động và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.

Hội nghị Geneva còn cho ta thêm bài học về sự kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tại Điện Biên Phủ, chúng ta đã thắng lớn nhưng chưa đủ sức tiến lên giải phóng ngay cả nước. Trong khi đó, các “bạn lớn” của chúng ta thì chủ trương hòa hoãn với phương Tây. Mỹ thì lăm le nhảy vào Đông Dương và điều này thực tế đã xảy ra sau khi Hiệp định Geneva được ký kết. Trong hoàn cảnh không có nhiều dư địa để chọn lựa, chúng ta đã vận dụng khéo léo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Ở đây, cái gốc “bất biến” là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chúng ta đã giành được. Đó là lần đầu tiên, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam. Còn “vạn biến” là trong lúc chưa thể thực hiện được trọn vẹn mục tiêu cuối cùng là thống nhất đất nước, thì có thể linh hoạt và biến hóa trong sách lược, chấp nhận giải pháp tạm thời chia cắt đất nước để rồi từng bước tiến tới mục tiêu bất biến là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước với Đại thắng mùa Xuân 1975.

Kế thừa những kinh nghiệm quá khứ, trong đó có của Hội nghị Geneva, chúng ta đã phát triển trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam với gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”. Chúng ta đã thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tránh phụ thuộc vào bất cứ nước lớn hay nhóm nước nào. Chúng ta cũng chủ động lựa chọn tham gia các cơ chế, diễn đàn khu vực và toàn cầu để vừa thích ứng với các trào lưu, xu thế chung của thế giới, vừa phục vụ một cách tốt nhất các lợi ích quốc gia, dân tộc thông qua các quyết sách lớn về đối ngoại như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, gia nhập ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)...

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đó đã đem lại nhiều kết quả. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên LHQ, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, có mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn như LHQ, ASEAN, WTO, APEC, ASEM... Những thay đổi, điều chỉnh đó đã tạo cho Việt Nam sức mạnh đối ngoại mềm dẻo, giúp chúng ta tranh thủ cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, từng bước củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/tam-voc-lich-su-va-nhung-bai-hoc-con-nguyen-gia-tri-cua-hoi-nghi-geneva-post583585.antd