Tản mạn chuyện… thẩm thơ

Phải thú nhận rằng, tôi rất mê cuốn 'Thi nhân Việt Nam' và nhìn chung là cảm phục nhà phê bình văn học Hoài Thanh. Song tôi không phục bác Hoài Thanh.

Đầm sen tỏa hương. Ảnh minh họa: Bình Thanh.

Đầm sen tỏa hương. Ảnh minh họa: Bình Thanh.

Bài cuối: Những góc nhìn khác

Không phục bác Hoài Thanh

Ở đây, tôi xin phép bình luận 2 chi tiết mà tôi cho rằng nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã không chính xác khi đánh giá về tác phẩm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu. Cần nói thêm rằng, hai chi tiết này tôi đã viết thành một bài báo gửi về Tạp chí Văn học khi bác Hoài Thanh còn sống. Nhưng lúc ấy, người ta không biết anh cán bộ nhép Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc hẻo lánh Vũ Nho là ai mà dám cãi, dám chê bác Hoài Thanh “nghiêng trời uy linh”. Bởi vậy, kết quả mà tôi nhận được là bức thư vẻn vẹn: “Chúng tôi cám ơn sự cộng tác của đồng chí. Bài không dùng được!”.

(Cũng xin nói thật rằng, tôi không thích “Chân dung nhà văn” của nhà thơ Xuân Sách nói chung và viết về bác Hoài Thanh nói riêng. Bởi vì, bác Xuân Sách chỉ chăm chăm nhằm vào chỗ tối, chỗ hạn chế “người ta thường tình” nên chân dung nhà văn thường méo mó. Chỉ riêng việc bác Hoài Thanh dám viết về “Nhật kí trong tù” của cụ Hồ rằng “Nhật kí trong tù gồm hàng trăm bài thơ trong đó có mấy chục bài hay” cũng đủ thấy bác Hoài Thanh dũng cảm! Tôi đọc mà kính cẩn ngả mũ!).

Bây giờ quay trở lại việc bình luận của chàng trẻ tuổi trong bài báo không được dùng.

Thứ nhất là nhà phê bình Hoài Thanh so sánh cuộc gặp của 2 cặp trai tài gái sắc của hai tác phẩm là “Truyện Kiều” và “Lục Vân Tiên”. Kiều và Kim Trọng thì say đắm, nồng nàn “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”. Còn anh chàng họ Lục thì “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái ta là phận trai”. Khi Nguyệt Nga muốn rước về nhà đền ơn thì Vân Tiên từ chối. Khi muốn tặng thơ thì Vân Tiên cũng chẳng mấy mặn mà:

“Vân Tiên ngó lại rằng ừ

Là thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu”

Tôi cho rằng, bác Hoài Thanh đã khập khiễng trong so sánh. Phải nói là rất khập khiễng, nên thiếu công bằng.

Kiều và Kim Trọng là trai thanh gái lịch đi Hội đạp thanh là để gặp gỡ, hò hẹn. Bởi vậy mà hai người quốc sắc, thiên tài gặp gỡ là mê nhau ngay, quyến luyến nhau ngay, không muốn rời “Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn”.

Còn Vân Tiên và Nguyệt Nga gặp nhau tình cờ, đột xuất trong vụ Vân Tiên đánh cướp.

Điều quan trọng nhất mà nhà phê bình quên, là khi đó, Vân Tiên đã có đính ước với Võ Thể Loan.

Nếu Vân Tiên gặp Nguyệt Nga mà cũng si mê nàng ngay, quyến luyến với nàng như Kim Trọng với Kiều thì sau này, chàng bị Võ Thể Loan bội ước, người ta sẽ không mấy thương cảm. Nguyễn Đình Chiểu do đó đã để Vân Tiên không mặn mà, không vồ vập Nguyệt Nga là có lý do riêng. Chàng là người chung tình nên xử sự như thế là đúng đắn.

Bởi thế mà so sánh 2 cặp nhân vật này và có ý chê Nguyễn Đình Chiểu là không thỏa đáng!

Chuyện thứ hai là nhà phê bình Hoài Thanh so sánh 2 đoạn tự tử trên sông của Thúy Kiều và Nguyệt Nga. Tôi không còn nhớ chính xác lời văn của bác Hoài Thanh. Nhưng nhớ rõ bác coi Thúy Kiều trước khi nhảy xuống sông Tiền Đường thì “một mình cay đắng trăm đường”, rồi viết thư tuyệt mệnh, nghĩ ngợi gần xa rồi mới:

“Trông vời con nước mênh mông

Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang”

Còn Nguyệt Nga thì đơn giản quá:

“Một mình bức tượng vai mang

Nhằm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay”

Nhà phê bình Hoài Thanh còn viết dòng bình luận “nhảy như nhảy ở sân vận động”! “Việc gì mà phải vội vàng nhảy ngay? Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tử mà vô tâm như người ta nhảy trên sân vận động. Nhịp điệu câu thơ cũng gấp gáp, láu táu đến buồn cười! Con người ấy còn cần gì phải nhảy xuống sông. Nó đã chết từ khi chưa nhảy. Nó chưa hề sống bao giờ” (Toàn tập Hoài Thanh, Tập hai, trang 47 - 48 ).

Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nguyệt Nga quyết chết để giữ thủy chung với Vân Tiên, thì hành động “vội vàng nhảy ngay” là một hành động dứt khoát, đáng ca ngợi chứ sao lại chế giễu? Và Nguyệt Nga đâu phải là nhân vật “chết” khi chưa nhảy. Nghĩa là chưa hề sống! Trong khi với bạn đọc và nhất là bạn đọc Nam Bộ, nàng là người có thủy, có chung, là tấm gương hiếu thảo, chung tình.

Đại ý là như vậy! Điều này cho thấy, dù là nhà phê bình văn học thuộc hàng đầu, có người còn nâng lên thành thiên tài, nhưng nếu có thành kiến thì việc phân tích không có sức thuyết phục. Thậm chí sai lầm!

 Thị Mầu đáng khen hay đáng chê? Ảnh minh họa: ITN.

Thị Mầu đáng khen hay đáng chê? Ảnh minh họa: ITN.

Thị Mầu đáng khen hay… chê?

Ai cũng ít nhất một lần xem vở chèo có Thị Mầu hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua màn ảnh nhỏ, qua video,...

Cô Thị Mầu do các nghệ sĩ tài danh như Diễm Lộc, Thu Huyền thủ vai làm bao nhiêu người say đắm. Nhưng thực chất Thị Mầu đáng khen hay đáng chê?

Bây giờ là thời của nữ quyền. Mọi người không quá khắt khe với chuyện Thị Mầu khao khát. Ừ thì cứ ve vãn chú tiểu Thị Kính giả trai! Ừ thì cứ giải tỏa cơn khát với chàng Nô. Nhưng cái việc có con, không dám nhận với anh Nô mà đem con bỏ cổng chùa, bắt vạ Thị Kính thì sao? Gắp lửa bỏ tay người, vu oan giá họa như thế, ai bênh vực Mầu được đây.

Nhà thơ Đặng Quốc Việt đã hiểu đúng về nhân vật này:

“Táo chùa không rụng, về vặt khế nhà

Mặt mo mẹ đeo, tiền phạt bố móc

Sợ tiếng đời “mâm son đũa mốc”

Lìa tình mẫu tử, bỏ lửa tay người

Thần Tình yêu bật khóc”

(Thị Mầu)

Nhà thơ Trương Nam Hương trong bài thơ “Ưu tư Thị Mầu” cũng rất đúng mực khi Thị Mầu tự đánh giá:

“Chị em mình phận đàn bà

Cỏ dù cao thấp vẫn là cỏ thôi

Tên em bồ hóng cửa chùa

Gỡ tai tiếng mãi đến giờ chưa bong”

(Ưu tư Thị Mầu)

Ai đó cứ việc “phải lòng”, cứ việc “ca” Thị Mầu. Nhưng nhìn đúng bản chất Thị Mầu như Đặng Quốc Việt là tinh tường, thấu cảm với tấm lòng người xưa.

Đến như Xuân Diệu cũng phải đọc… 10 lần

Tôi thích thơ Hoàng Nhuận Cầm, cũng đã viết lời bình về thơ anh. Nhân Hội Nhà văn Hà Nội tọa đàm tưởng nhớ Hoàng Nhuận Cầm, tôi có viết bài. Trong bài đó tôi kể lại ấn tượng khi đọc Xuân Diệu nói về bài “Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt”.

“Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng

Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm

Yêu chim mà chẳng lên thăm

Bởi vì điểm chốt nên nằm lặng im”

Xuân Diệu viết: “Bây giờ tôi mới cảm thấy mình vừa mới thật hiểu bài thơ, phải đọc lần thứ mười mới xúc cảm được đến tận trái tim của bài thơ, nghĩa là của người làm thơ còn phảng phất tuổi thiếu niên thì mới coi sự xa chim là quan trọng, chứ thật là thanh niên rồi thì phải Gửi em cô thanh niên xung phong chứ” (Xuân Diệu - Đọc những bài thơ viết về bộ đội. Tạp chí Tác phẩm mới, số 43 - 44 năm 1974, trang 64, 65).

Tôi đã kính phục và học tập Xuân Diệu. Khi viết tiểu luận “Đi tìm vẻ đẹp của thơ”, tôi đã dẫn vào bài viết của mình và tâm sự với bạn đọc: “Thơ xin chớ đọc một lần!” (Đi tìm vẻ đẹp của thơ - trong cuốn Vũ Nho - Đi giữa miền thơ, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2001, tr.108).

Đến tài năng như Xuân Diệu mà còn phải đọc mười lần cơ mà!

Vì sao nhà thơ Tố Hữu bỏ bài “Tâm sự”

Khi tìm hiểu vì sao các nhà làm sách giáo khoa lờ đi không chú thích câu văn trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:

“Từ Triệu, Đinh Lý Trần, bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương” chúng tôi đã biết lý do.

Hóa ra là các vị ngại nhà Triệu là triều đại của Triệu Đà.

Thật ra, Triệu Đà chính là người chống lại nhà Hán chứ không phải ai khác. “Đại Việt Sử kí toàn thư” ghi nhận kỉ nhà Triệu, sau kỉ nhà Thục. Nguyễn Trãi viết “Triệu, Đinh, Lý, Trần” như thế là viết về Triệu Đà.

Chỉ vì những người làm sách quá tin vào truyền thuyết “Trọng Thủy, Mỵ Châu” nên coi Triệu Đà là giặc, là kẻ xâm lược. Trái hoàn toàn với sách “Đại Việt Sử kí toàn thư”.

Chúng tôi đã tìm được đánh giá của Bác Hồ về nhân vật Triệu Đà trong diễn ca của Bác:

“Triệu Đà là vị hiền quân

Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời”

Nam Việt là tên nước ta thời Triệu Đà. Năm đời là Vũ Đế, Văn Vương, Minh Vương, Ai Vương, Thuật Dương Vương được chép trong “Đại Việt sử kí toàn thư”.

Không nghi ngờ gì, Triệu Đà - ông vua chống Hán của nước ta.

Trước đây ai cũng biết bài thơ “Tâm sự” nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Trong đó có những câu:

“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu

Trái tim lầm chỗ để trên đầu

Nỏ thần vô ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”

Chúng tôi tìm trong tập “Tố Hữu - Thơ”, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1994, lúc đó nhà thơ Tố Hữu còn sống. Tìm đi tìm lại thì hóa ra nhà thơ đã lặng lẽ bỏ bài thơ đó ra khỏi tập thơ tuyển quan trọng này. Vì sao bỏ bài đó? Chắc rằng nhà thơ ngại vì coi Triệu Đà là giặc, trái với Bác Hồ coi “Triệu Đà là vị hiền quân”. Chắc chắn là như thế!

Phân xử cho Nguyễn Hoàng Sơn và Trần Mạnh Hảo

Nguyên do là Nguyễn Hoàng Sơn viết về sen có đoạn:

“Đầu tiên là lá nổi

Thả diều trên mặt ao

Búp non xuyên thủng nước

Nụ sen hồng nhô sau”

(Góp hương vào mùa Hạ)

Khi đó, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đang có chút khúc mắc với Nguyễn Hoàng Sơn, nên viết bài chê tập “Dắt mùa Thu vào phố”. Nhà thơ cho rằng, Nguyễn Hoàng Sơn đã nhầm SEN với SÚNG! Lí do vì lá sen không nổi trên mặt nước như lá súng!

Quả tình, tôi cũng dân nhà quê Ninh Bình, song chỗ làng tôi cũng chẳng có sen nên chẳng biết lá sen có giống lá súng nổi trên mặt nước hay không. Nhưng tôi có đọc sách nên biết rõ lá sen nổi trên mặt nước, tròn như đồng tiền. Chả thế mà “Chinh phụ ngâm” có câu:

“Thử tính lại diễn khơi ngày ấy

Tiền sen này đã nảy là ba”

Khi ở Hà Nội, gần hồ sen Phương Liệt, tôi đã quan sát lá sen non ban đầu hệt như lá súng, nổi tròn xoe trên mặt nước. Rồi sau đó mới dần xuất hiện lá sen có cuống cứng đứng thẳng như ta thường thấy.

Hóa ra, cả hai nhà thơ đều xuất thân nông thôn, nhưng Nguyễn Hoàng Sơn đúng. Trần Mạnh Hảo không sai, nhưng đúng một nửa. Vì nhà thơ chỉ nhìn thấy lá sen giai đoạn sau, chứ không phải giai đoạn đầu.

Đem cái đúng một nửa để chê người đúng hoàn toàn thì tôi bênh vực Nguyễn Hoàng Sơn, chẳng phải vì Sơn chơi với tôi!

PGS.TS Vũ Nho

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/tan-man-chuyen-tham-tho-post741810.html