TAND Tối cao hướng dẫn về tình tiết 'thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải'
Theo TAND Tối cao, nếu người phạm tội 'thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải' thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao vừa có công văn 174/TANDTC-PC về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
TAND Tối cao cho biết thời gian qua cơ quan này nhận được phản ánh của các tòa án về việc gặp khó khăn, vướng mắc trong áp dụng tình tiết giảm nhẹ "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, TAND Tối cao có ý kiến gửi đến các TAND và tòa án quân sự các cấp.
Cụ thể, tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra; tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải không phải là hai tình tiết độc lập.
Do đó, nếu người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trên đây là ý kiến của TAND tối cao để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo khi giải quyết các vụ án cụ thể. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị báo cáo về TAND tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Hiện hành, tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự liệt kê 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Cụ thể, ngoài tình tiết giảm nhẹ "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", theo quy định hiện hành, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hiện nay gồm: Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
Phạm tội do lạc hậu; Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
Người phạm tội tự thú; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự kể trên, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Tuy vậy, các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.