Tăng đầu tư công để giảm rủi ro từ việc Mỹ áp thuế
Nhiều chuyên gia lo ngại về kịch bản Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và cả gián tiếp khi Mỹ áp thuế các quốc gia. Một giải pháp để giảm rủi ro bên ngoài, ổn định vĩ mô và đạt mức tăng trưởng cao là chính sách tài khóa.

Tàu chở hàng hóa xuất nhập khẩu cập bến tại cảng container quốc tế Tân Cảng - Cát Lái, TPHCM. Ảnh: T.Thủy
Diễn biến thương mại của Mỹ với thế giới lại tiếp tục nóng lên khi mới đây mức thuế áp lên Mexico và Canada có hiệu lực từ ngày 4-3-2025. Các quốc gia tiếp tục “căng mình” theo dõi và phản ứng trong mối lo ngại về ảnh hưởng đến kinh tế, trong đó có Việt Nam.
Tạp chí Kinh tế Sài Gòn có buổi trao đổi với ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore), ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng UOB Việt Nam, về hệ quả chính sách áp thuế và hướng đi cần thiết để Việt Nam giữ ổn định vĩ mô nhưng vẫn đạt mốc tăng trưởng cao trong năm nay.
KTSG Online: Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa được nhắc đến cụ thể trong những tuyên bố áp thuế của ông Trump, nhưng rủi ro có thể là gì thưa ông?
- Ông Suan Teck Kin: Mối đe dọa thuế quan với Việt Nam là hiện hữu. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump, tỷ trọng hàng Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc liên tục giảm còn khu vực ASEAN và Việt Nam nói riêng đều tăng.
Đây là xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng dưới tác động chính sách thuế quan thời Trump nhiệm kỳ đầu, có lợi cho Việt Nam nhưng cũng dẫn đến mối đe dọa khi thâm hụt thương mại giữa Mỹ với Việt Nam cũng tăng lên gấp 3 lần. Hiện chính quyền Trump đã áp đặt thuế quan lên Trung Quốc, Mexico và Canada, sắp tới có thể là châu Âu. Câu hỏi là khu vực ASEAN hay Việt Nam sẽ là mục tiêu kế tiếp?
Ảnh hưởng của thuế quan sẽ có tác động trực tiếp và gián tiếp, tức ngay cả khi Mỹ áp thuế đến các quốc gia khác sẽ khiến cho giá nhập khẩu tăng, kéo theo nhu cầu giảm. Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng khi đơn hàng xuất khẩu giảm vì lệ thuộc nhiều vào thương mại mậu dịch, đặc biệt là khi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Ông Suan Teck Kin cho rằng rủi ro thương mại từ các chính sách áp thuế là hiện hữu với Việt Nam và Việt Nam cần chuẩn bị từ sớm. Ảnh: DNCC.
Ngoài rủi ro thương mại, điều lo ngại tiếp theo là gì?
- Ông Suan Teck Kin: Thách thức lớn sẽ là biến động rủi ro trên thị trường tài chính khi đồng đô la Mỹ tăng. Nhìn lại nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump, đồng đô la cũng tăng mạnh ở thời điểm bắt đầu tăng thuế quan. Dự báo của UOB cho thấy trong thời điểm quí 2, chỉ số DXY có thể lên tới ngưỡng gần 113 (hiện xoay quanh mức 107 điểm – PV), sau đó sẽ giảm dần.
- Ông Đinh Đức Quang: Tôi muốn bổ sung thêm quan sát rằng chính quyền mới tại Mỹ đang đề cập nhiều đến các biện pháp thuế quan, nhưng điều này vẫn đang ở mức độ thăm dò nhằm mục đích đẩy nhanh các đàm phán thương mại trên cơ sở các bên đều có lợi.
Do đó ở giai đoạn hiện nay sẽ rất khó đưa ra dự báo. Áp lực 2 quí đầu năm vì thế sẽ biến động nhiều hơn, nhưng khi có những thỏa thuận thương mại cụ thể hơn vào nửa sau của năm 2025, mọi thứ đi vào quỹ đạo thông thường thì dễ dàng hơn.

Ông Đinh Đức Quang cho rằng NHNN sẽ giữ nguyên các mức lãi suất điều hành hiện tại. Ảnh: DNCC.
Vậy còn rủi ro tỷ giá và áp lực tiền đồng năm nay sẽ như thế nào, thưa ông?
- Ông Đinh Đức Quang: Tỷ giá giao dịch hiện tiếp tục diễn biến bình thường với các biến động tăng giảm theo nhu cầu mua bán tùy từng thời điểm. Có một thông tin tích cực là hiện nay trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng thương mại vẫn đang ở mức dương, tức cung cầu ngoại tệ dồi dào, ngân hàng có nguồn để cung cấp cho doanh nghiệp có nhu cầu.
Trong khoảng 2-3 tuần trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thay đổi tỷ giá tham chiếu tăng khoảng 30 đồng, tức mức độ biến động linh hoạt nhiều hơn so với quí 4-2024. Tôi nghĩ NHNN sẽ tiếp tục cách tiếp cận linh hoạt, theo sát và sử dụng công cụ can thiệp liên tục khi cần thiết, để giữ mức biến động nằm trong khung kỳ vọng, chứ không cố định.
Chúng tôi dự báo tỷ giá có thể đạt mức 26.000 đồng/đô la Mỹ vào quí 2, quí 3 và sẽ giảm nhẹ vào cuối năm. Mức biến động 2-3% này dựa trên tổng thể tích cực từ dự báo Việt Nam tiếp tục có được thặng dư thương mại, thu hút đầu tư FDI, vốn vay nước ngoài, nguồn thu kiều hối và nguồn thu ngoại tệ từ khách du lịch quốc tế.
Mặt bằng chung lãi suất đô la sẽ tiếp tục ở mức cao quanh mức 4%. Lãi suất đô la Mỹ sẽ được cắt giảm rất chậm trong năm 2025, với mức khoảng 0,25 điểm phần trăm sớm nhất vào giữa năm 2025. Mỹ chưa thực sự bắt đầu nới lỏng tiền tệ thì các thị trường còn lại sẽ chưa thể mạnh tay cắt giảm lãi suất.

Sức mạnh đồng đô la Mỹ dự báo đạt đỉnh vào cuối quí 2-2025. Nguồn: UOB.
Gần đây thị trường cũng nhắc đến áp lực tăng lãi suất huy động. Ông có bình luận gì về khả năng tăng lãi suất trong năm nay?
- Ông Đinh Đức Quang: Trong vài tháng gần đây, thị trường ghi nhận một số thông tin các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động mạnh, nhưng đây chỉ là diễn biến cục bộ tại một số ngân hàng.
Hiện nay, lãi suất huy động tiền đồng kỳ hạn 12 tháng quanh mức 4,8-5% của một nhóm và khoảng 5,5% ổn định trong những tháng gần đây với nhóm thứ hai. Đây là mức lãi suất phù hợp trong bối cảnh tiền đồng giảm giá khoảng 5% so với đô la trong năm 2024.
Nhìn chung, Việt Nam khó cắt giảm lãi suất vì áp lực đô la vẫn ở mức cao, lạm phát cũng chưa đủ thấp, nhưng cũng chưa có cơ sở tăng lãi suất. Thời gian gần đây lãi suất phát hành tín phiếu giảm về mức 3,5% từ mức trước đó là 4%. Điều này cho thấy NHNN sẵn sàng cắt giảm lãi suất khi có cơ hội.
Để giảm thiểu rủi ro thương mại và đạt mục tiêu tăng trưởng GDP, Việt Nam nên tập trung vào câu chuyện nào?
- Ông Suan Teck Kin: Về xuất khẩu, tôi nghĩ Chính phủ nên khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường còn lại, đặc biệt là quốc gia láng giềng, đồng thời tập trung nhiều hơn vào các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như nông sản.
Nhưng quan trọng hơn, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng cường đầu tư hạ tầng để giảm thiểu rủi ro bên ngoài. So với Trung Quốc, Việt Nam là quốc gia phụ thuộc xuất khẩu nhiều hơn, nghĩa là khi môi trường bên ngoài có biến động, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nhiều hơn.
Việt Nam có dư địa để đầu tư hạ tầng khi tỷ trọng đầu tư chỉ chiếm khoảng 30% trong khi Trung Quốc tới 41%. Mặt khác, tỷ lệ nợ công trên GDP hiện tại chỉ khoảng 35%. Con số này cho thấy Chính phủ rất kỷ luật với chính sách tài khóa, trong khi đây là chính sách đóng vai trò quan trọng.
Việc đầu tư hạ tầng không thể phụ thuộc vào tư nhân mà cần sự tham gia của Chính phủ. Chính phủ đầu tư nhiều hơn thì cũng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài. Nhưng bên cạnh việc có dư địa đầu tư hạ tầng, câu hỏi đặt ra tiếp theo sẽ là năng lực để thực hiện đầu tư.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tang-dau-tu-cong-de-giam-rui-ro-tu-viec-my-ap-thue/