Tạo sự công bằng, văn minh cũng như bỏ tư duy 'xe to đền xe nhỏ'
Cục Cảnh sát giao thông (CSGT) khẳng định: Khi Luật Bảo đảm trật tự ATGT đường bộ được thông qua sẽ có hàng loạt những điểm mới, tạo sư công bằng, gắn chặt trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, cơ quan chức năng, chính quyền... trong công tác đảm bảo ATGT; đồng thời bỏ tư duy 'xe to đền xe bé' khi xảy ra TNGT.
Liên quan đến dự thảo Luật Bảo đảm trật tự ATGT đường bộ, ngày 8-11, thông tin với PV Báo ANTĐ, lãnh đạo Cục CSGT cho biết: Khi dự thảo luật được thông qua, hàng loạt những điểm mới, tác động tích cực của Dự án Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ sẽ được thực hiện, đi vào cuộc sống. Cụ thể:
1. Bộ Công an chịu trách nhiệm chính đối với công tác Bảo đảm TTATGT đường bộ
Trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã quy định trách nhiệm của các Bộ ngành, UBND các địa phương, tuy nhiên việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính về TTATGT đường bộ chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến chồng chéo khi tổ chức thực hiện. Do đó trong Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ đã xác định nguyên tắc bảo đảm TTATGT đường bộ là một nội dung của bảo vệ An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó Bộ Công an chịu trách nhiệm chính. (K2-Đ3)
2. Huy động toàn dân tham gia phối hợp bảo đảm TTATGT đường bộ
Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ đã phát huy sức mạnh của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với công tác bảo đảm TTATGT. Luật quy định nguyên tắc: Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác bảo đảm TTATGT đường bộ; khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp bảo đảm TTATGT đường bộ.
3. Bảo vệ trẻ em và người yếu thế, tính nhân văn của Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là bảo vệ quyền con người (K1-Đ4), Dự án Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ đã có nhiều quy định để đảm bảo cho trẻ em và nhóm người yếu thế được ưu tiên, quan tâm, bảo vệ khi tham gia giao thông, gồm:
- Luật quy định quy tắc chung cơ bản: Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông phải chú ý bảo đảm an toàn cho người đi bộ, người đi xe đạp, trẻ em, người già và người khuyết tật. (K2 -Đ10).
- Luật dành riêng 01 điều (Đ13) để quy định về người đi bộ, người khuyết tật, người già yếu, trẻ em tham gia giao thông. Trong đó, đối với người khuyết tật, già yếu, trẻ em đã đặc biệt được quan tâm.Với những quy định rất nhân văn dành cho trẻ em, người khiếm thị, người mắc bệnh tâm thần, hạn chế về mặt trí tuệ phải có người dắt khi qua đường hoặc khi tham gia giao thông. Mọi người đều phải có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật, người già yếu, trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường. Quy định này xuất phát từ đạo nghĩa, từ ý thức nhân văn của người Việt Nam và phù hợp với công ước Quốc tế về giao thông đường bộ (Công ước Viên năm 1968).
- Luật bắt buộc người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường an toàn không chỉ tại nơi có vạch kẻ đường hoặc báo hiệu khác dành cho người đi bộ, mà tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, nếu quan sát thấy người đi bộ hoặc nhóm người yếu thế đi qua đường thì cũng phải giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho họ. (K5-Đ10)
- Ngay đối với trường hợp nơi có đèn tín hiệu vàng nhấp nháy được đi, người điều khiển phương tiện cũng phải chú ý quan sát, giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho người đi bộ qua đường.(K2-Đ12)
- Với quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật trong đào tạo lái xe”(K4-Đ5), Luật cho phép người khuyết tật điều khiển phương tiện tham gia giao thông được cấp giấy phép lái xe phù hợp với loại xe và tình trạng khuyết tật (K3-Đ42) và cũng phải đảm bảo tiêu chuẩn sức khỏe theo quy định của ngành Y tế. Quy định này được xem là tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển phương tiện dành cho người khuyết tật, tạo điều kiện cho người yếu thế khi tham gia giao thông. Không chỉ với mô tô, hiện nay trên thế giới đã phát triển rất nhiều loại xe dành cho người khuyết tật trong đó có các phương tiện ô tô có thiết kế phù hợp.
- Luật cũng đề ra hàng loạt quy định về bảo vệ trẻ em, gồm: Quy định việc không để trẻ em ngồi hàng ghế trước (vị trí ghế cạnh người lái xe) trên xe ô tô khi tham gia giao thông đường bộ. Đối với trẻ em dưới 4 tuổi phải được chở bằng ghế thiết kế dành cho trẻ em. Người lái xe có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn việc thắt dây an toàn cho trẻ em (K4-Đ10). Kết hợp với các quy định khác về quy tắc tham gia giao thông đường bộ, không chỉ là việc tiếp thu quy định của Công ước Viên năm 1968, mà còn đặt trẻ em, thế hệ tương lai vào vị trí trung tâm cần được bảo vệ an toàn tuyệt đối khi tham gia giao thông.
4. Xây dựng quy tắc giao thông đường bộ văn minh
Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ đã kế thừa từ Luật Giao thông đường bộ (2008), đồng thời tiếp thu có chọn lọc những quy tắc giao thông của Công ước Viên năm 1968 và từ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn công tác bảo đảm TTATGT trong những năm qua, để xây dựng bộ quy tắc giao thông đường bộ văn minh, hiện đại; đã mô tả, làm rõ hơn một số quy tắc như tránh, vượt, chuyển hướng, chuyển làn, sử dụng còi, đèn tín hiệu, giao thông trên đường cao tốc, trong hầm đường bộ... Trong đó có một số quy định mới, nổi bật:
- Quy định về những trường hợp nguy hiểm người điều khiển phương tiện tham gia giao thông gặp phải trên đường, thì phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn. Như các trường hợp: Nhường đường cho người đi bộ (K5-Đ10); Có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm hoặc có chướng ngại vật trên đường; Chuyển hướng xe chạy hoặc tầm nhìn bị hạn chế; Qua nơi giao nhau; Tránh xe chạy ngược chiều hoặc khi cho xe chạy sau vượt... (K3-Đ17). Quy định này sẽ giúp hạn chế cơ bản tình trạng “phóng nhanh, vượt ẩu”, nhất là khi đi đến những đoạn đường nguy hiểm, nơi ngã ba, ngã tư khi người điều khiển phương tiện có thói quen đi cố để vượt qua đèn tín hiệu giao thông. Mặt khác, quy định này cũng giúp cho việc xác định lỗi chính xác giữa các bên nếu xảy ra TNGT.
- Luật đã bổ sung quy định đối với tình huống vượt xe, nếu trường hợp người điều khiển phương tiện phía trước quan sát phần đường phía trước có chướng ngại vật hoặc không đủ điều kiện an toàn, thì phải bật tín hiệu chuyển hướng sang trái hoặc đưa tay trái ra hiệu cho xe phía sau biết là chưa vượt được (K3 Đ19). Quy định này sẽ giúp giảm thiểu nhiều vụ TNGT và thương vong, do hiện nay lỗi tránh vượt sai quy định là nguyên nhân chính của nhiều vụ TNGT gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Luật đã khái niệm rõ về trạng thái dừng và đỗ xe (Đ23).“Dừng xe là trạng thái đứng yên tạm thời của phương tiện giao thông trong một khoảng thời gian cần thiết đủ để cho người lên, xuống phương tiện, xếp dỡ hàng hóa, kiểm tra kỹ thuật xe”;“Đỗ xe là trạng thái đứng yên của phương tiện không giới hạn thời gian”. Đồng thời quy định chặt chẽ việc người lái xe phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn khi dừng và đỗ xe như: Phải có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết khi vào vị trí dừng xe, đỗ xe; Khi đỗ xe, chỉ được rời khỏi xe khi đã kéo phanh tay hoặc thực hiện các biện pháp an toàn; Việc dừng, đỗ xe không làm ảnh hưởng đến người đi bộ và các phương tiện tham gia giao thông… Khi hạ tầng giao thông đủ điều kiện, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định các điểm chỉ được dừng, đỗ xe trên đường phố.
- Quy tắc giao thông có quy định về mở cửa xe (Đ24), trong đó đặt ra yêu cầu với người lái xe, người ngồi trên xe ô tô trước khi mở cửa phải quan sát phía trước, phía sau và bên phía mở cửa xe, khi thấy an toàn mới được mở cửa, đồng thời không được mở cửa, để cửa mở khi phương tiện đang di chuyển. Việc quy định cụ thể về mở cửa xe sẽ giúp hạn chế nhiều những vụ TNGT xuất phát sự bất cẩn của lái xe và người ngồi trên xe ô tô.
- Đối với giao thông trên đường cao tốc (Đ30), bên cạnh những quy định trước đây về ra và vào đường cao tốc, không chạy quá tốc độ tối đa và dưới tốc độ tối thiểu, không chạy xe ở làn dừng khẩn cấp; dừng, đỗ xe đúng nơi quy định…; Luật còn đưa thêm quy định mang tính an toàn cao đối với người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng bị sự cố phải đưa xe ra khỏi phần đường xe chạy, còn phải có trách nhiệm trong trường hợp không thể di chuyển phương tiện được, phải có báo hiệu bằng đèn khẩn cấp và đặt biển hoặc đèn cảnh báo về phía sau xe khoảng cách tối thiểu 150 mét, nhanh chóng báo cho cơ quan Công an hoặc cơ quan quản lý đường cao tốc.
- Luật đã quy định cụ thể về tín hiệu của các xe được quyền ưu tiên như: xe chữa cháy, xe quân sự, công an, xe cứu thương, xe hộ đê... Các xe ưu tiên khi di chuyển phải có tín hiệu đèn, còi theo quy định, riêng xe quân sự, công an phải có thêm cờ hiệu. (Đ32)
- Luật cũng quy định riêng một điều (Đ40) về quản lý xe ô tô không người lái, phương tiện giao thông đa tính năng. Trong đó, xác định phương tiện loại hình này chỉ được hoạt động trong phạm vi quy định và phải bảo đảm các điều kiện về an toàn giao thông, an ninh, trật tự. Đây là việc đón đầu và định hướng tương lai đối với loại phương tiện mới, không người lái mà hiện thế giới đang nghiên cứu phát triển.
5. Quy định về đấu giá biển số xe đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của xã hội và của người dân
- Xuất phát từ quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, thì kho số của biển số xe do Bộ Công an đang sử dụng để đăng ký xe là tài sản công, nhưng Luật giao thông đường bộ năm 2008 hiện hành quy định cấm mua, bán biển số xe. Dự thảo Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đã sửa đổi quy định này, theo đó chỉ cấm mua, bán trái phép biển số xe, còn trường hợp mua biển số thông qua đấu giá là hợp pháp. Đồng thời, dự thảo Luật đã quy định cấp biển số thông qua đấu giá là một trong các hình thức cấp biển số xe. (K3-Đ37)
- Các Luật chuyên ngành đã cụ thể hóa việc đấu giá biển số xe, đảm bảo biển số xe cơ giới sau đấu giá đảm bảo đầy đủ các quyền về tài sản gồm: quyền sử dụng, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt. Bộ Công an thực hiện sớm đấu giá biển số xe đảm bảo công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân lựa chọn biển số xe cơ giới theo sở thích để đáp ứng tư tưởng trong sinh hoạt và kinh doanh và gắn trách nhiệm người trúng đấu giá sử dụng biển số đó khôngđúng quy định.
- Việc đấu giá biển số xe sẽ được thực hiện theo quy định của Luật đấu giá tài sản, để cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch và tránh tiêu cực trong quá trình đấu giá, Bộ Công an sẽ báo cáo Chính phủ quy định tổ chức đấu giá biển số xe theo hình thức đấu giá trực tuyến và ký hợp đồng thuê tổ chức đấu giá tài sản có trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến để tổ chức đấu giá và giám sát quá trình tổ chức việc đấu giá, tham dự cuộc đấu giá, thực hiện các quyền khác theo quy định tại Luật Đấu giá tài sản để đảm bảo việc tổ chức đấu giá công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Việc đấu giá biển số được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu giá tài sản. Biển số sau đấu giá có đầy đủ thuộc tính về quyền tài sản theo quy định của pháp luật.
- Việc cấp biển số xe ô tô thông qua đấu giá nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo công khai, minh bạch, nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật và mọi người dân đều có quyền bình đẳng trong việc lựa chọn biển số xe ô tô thông qua đấu giá.
6. Quản lý có hệ thống đối với người điều khiển phương tiện
- Việc quy định vấn đề đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ sẽ quản lý được hành vi chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông một cách xuyên suốt và nhất quán, từ khâu đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe và sau khi được cấp giấy phép lái xe, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra hiện nay đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng người lái xe về kỹ năng điều khiển, kiến thức và ý thức chấp hành pháp luật an toàn giao thông, phòng ngừa, hạn chế các vụ tai nạn giao thông, phù hợp với Công ước Viên về Giao thông đường bộ năm 1968 và luật của nhiều nước trên thế giới, bảo đảm tính hợp lý, đồng bộ và thống nhất, phù hợp với chuẩn mực quốc tế, bảo vệ tính mạng, tài sản, bảo vệ quyền con người.
- Các chính sách được quy định trong Dự thảo Luật được xây dựng theo định hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, trong đó:
+ Người lái xe tiếp tục sử dụng giấy phép lái xe đã cấp cho đến khi hết thời hạn hoặc khi có nhu cầu đổi, cấp lại.
+ Người dân được lựa chọn hình thức học, lựa chọn cơ sở đào tạo, giáo viên dạy lái, trung tâm sát hạch lái xe, cơ quan cấp, đổi giấy phép lái xe theo điều kiện, nhu cầu cá nhân, đảm bảo tiết kiệm về thời gian, kinh phí, nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp.
+ Công khai kết quả đào tạo, sát hạch lái xe cho người dân để người dân có đầy đủ thông tin về cơ sở đào tạo, trung tâm sát hạch, giáo viên, sát hạch viên.
+ Người đủ 17 tuổi trở lên được đăng ký học lái xe. Độ tuổi được cấp giấy phép lái xe vẫn giữ như hiện nay. (Đ44)
- Xuất phát từ thực tiễn, cơ quan quản lý sẽ xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, sát hạch sát với yêu cầu thực tiễn công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, xác định kỹ năng lái xe trên đường giao thông công cộng là căn cứ quan trọng nhất để đánh giá kết quả sát hạch lái xe, cũng như bổ sung các kiến thức về sơ cứu ban đầu tai nạn giao thông, kiến thức và kỹ năng phòng ngừa tai nạn giao thông… Xác định quá trình chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện là căn cứ để nâng hạng giấy phép lái xe. Gắn trách nhiệm cá nhân giáo viên dạy lái xe và sát hạch viên sát hạch lái xe đối với kỹ năng điều khiển và hiểu biết pháp luật của người lái xe. (Đ45)
- Tiếp tục triển khai cấp đổi Giấy phép lái xe trên Cổng dịch vụ công, ngoài ra người dân vẫn có thể đăng ký đổi theo hình thức thủ công nộp hồ sơ từ Công an cấp xã đảm bảo thuận lợi nhất theo nhu cầu. Người dân sẽ không phải kê khai thông tin cá nhân mà cơ quan quản lý căn cứ vào dữ liệu căn cước công dân để thực hiện thủ tục cấp, đổi theo yêu cầu. Hồ sơ cấp giấy phép lái xe và các lần cấp đổi sẽ được cơ quan nhà nước mã hóa bằng dữ liệu quản lý trên phần mềm phục vụ công tác cấp đổi, cấp lại giấy phép lái xe, người dân sẽ không phải tự bảo quản, lưu trữ hồ sơ gốc như hiện nay.
7. Các hạng Giấy phép lái xe
- Luật quy định Giấy phép lái xe gồm 11 hạng, trong khi đó theo Luật Giao thông đường bộ năm 2008 là 13 hạng. Bỏ hạng A4 cấp cho người điều khiển máy kéo có trọng tải dưới 1.000kg, hạng B1 và B2 cấp cho cả người hành nghề và không hành nghề lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ, xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500kg. Đổi tên các hạng GPLX A1, D, E, FB2, FC, FD, FE thành A01, D2, D, BE, CE, D2E, DE. (Đ42)
- Đây là nội dung được nội luật hóa từ các quy định về phân hạng Giấy phép lái xe tại Công ước Viên năm 1968, tạo điều kiện cho việc sử dụng Giấy phép lái xe của Việt Nam ở nước ngoài và giấy phép lái xe nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời đây là nghĩa vụ của quốc gia thành viên khi Việt Nam ký kết, gia nhập công ước này. Các quy định phân hạng trong Dự thảo được thực hiện trên nguyên tắc kế thừa các quy định hiện hành của Việt Nam đồng thời không trái với quy định của Công ước Viên 1968, để không gây tác động khi thay đổi về chính sách. Việc cấp giấy phép lái xe theo hạng mới sẽ được thực hiện đối với người cấp lần đầu và cho những giấy phép lái xe thuộc các trường hợp cấp đổi, cấp lại.
- Giấy phép lái xe gồm các trường thông tin bằng tiếng Việt và tiếng Anh trong đó có họ, tên, ngày sinh, số định danh cá nhân, ngày cấp, ngày hết hạn… Bổ sung quy định thông tin trên giấy phép lái xe là nội luật hóa từ quy định của Công ước Viên 1968, các thông tin này là yêu cầu bắt buộc đối với Giấy phép lái xe nội địa. Ngoài ra, Luật còn bổ sung quy định về thời hạn giấy phép lái xe, giấy phép lái xe quốc tế, các quy định về cấp, cấp lại, đổi, thu hồi giấy phép lái xe.
8. Quy định về điểm của Giấy phép lái xe
- Việc quy định trừ điểm và phục hồi điểm giấy ghép lái xe thời gian qua được dư luận quan tâm và cho rằng đây là một biện pháp quản lý Nhà nước cần thiết và hữu hiệu trong tình hình hiện nay. Chính phủ đã bàn kỹ và thống nhất đề xuất quy định trừ điểm, phục hồi điểm giấy phép lái xe là biện pháp quản lý hành chính Nhà nước (không phải hình thức xử phạt vi phạm hành chính), nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác bảo đảm TTATGT trong tình hình hiện nay, tiếp thu kinh nghiệm quản lý an toàn giao thông của các nước tiên tiến trên thế giới để quản lý, giám sát quá trình chấp hành pháp luật của người lái xe, từ đó sẽ tác động tới hành vi, nâng cao ý thức của người tham gia giao thông.
- Luật quy định GPLX có 12 điểm trong 12 tháng, tính từ ngày cấp mới.Trong 12 tháng người lái xe không bị trừ hết điểm sẽ được phục hồi điểm nhằm khuyến khích người lái xe nâng cao và có ý thức hơn trong việc chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. (Đ47)
- Về lịch sử quản lý giấy phép lái xe: Năm 2003 Chính phủ ban hànhNghị định số 15/2003/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đã quy định áp dụng biện pháp quản lý hành chính nhà nước: “Đánh dấu số lần vi phạm trên giấy phép lái xe”.
- Nghiên cứu các lĩnh vực quản lý nhà nước khác như Y tế, Dược, pháp luật cũng đã quy định biện pháp quản lý hành chính nhà nước tương tự: “Thu hồi chứng chỉ hành nghề” để tăng cường quản lý nhà nước đối với việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, các nước tiên tiến trên thế giới như: Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Campuchia... đều có quy định trừ điểm giấy phép lái xe đối với người lái xe khi có các hành vi vi phạm có nguy cơ gây mất an toàn giao thông cao nhằm quản lý việc chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện giao thông.
9. Về tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển và giải quyết ùn tắc giao thông
- Xuất phát từ thực tiễn tình hình tổ chức an toàn giao thông và cơ chế giải quyết ùn tắc giao thông có những bất cập đòi hỏi phải quy định các biện pháp cụ thể (cơ quan quản lý, khai thác và vận hành đường bộ chỉ khắc phục đạt khoảng 12% các bất cập về tổ chức giao thông do cơ quan Công an kiến nghị, nhiều kiến nghị là “điểm đen”, điểm tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông không được khắc phục kịp thời). Luật đã thiết kế 01 chương quy định về nội dung tổ chức an toàn giao thông; chỉ huy, điều khiển giao thông; bảo đảm an toàn giao thông các sự kiện trên đường bộ; bảo đảm an toàn giao thông các phương tiện siêu trường, siêu trọng; quy định cụ thể về các bất cập trong tổ chức giao thông đường bộ và trách nhiệm của các đơn vị có liên quan, nhất là trách nhiệm của cơ quan quản lý, khai thác và vận hành đường bộ trong việc khắc phục các bất cập về tổ chức giao thông do cơ quan Công an kiến nghị; quy định biện pháp, trách nhiệm và cơ chế giải quyết ùn tắc giao thông của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp; quy định đèn, hệ thống đèn tín hiệu giao thông do cơ quan Công an khai thác, vận hành.
- Trong đó nổi bật là việc cơ quan Công an có thẩm quyền tạm thời đình chỉ hoạt động giao thông khu vực không đảm bảo an toàn giao thông và đề nghị cơ quan quản lý đường bộ phải lắp đặt biển báo cấm tạm thời.
- Các biện pháp đưa ra sẽ góp phần giải quyết có hiệu quả hơn tình trạng bất cập về tổ chức giao thông, ùn tắc giao thông do có cơ chế rõ ràng, phù hợp, có các biện pháp thực thi cụ thể, kịp thời. Căn cứ tình hình thực tế, thời gian ùn tắc, tai nạn giao thông xảy ra liên quan đến người tham gia giao thông, hạ tầng đường xá, phương tiện để khắc phục, xử lý nghiêm; gắn trách nhiệm những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xảy ra các vụ việc này.(Đ53)
10. Giải quyết tai nạn giao thông: Bỏ tư duy “Xe to đền xe nhỏ”
- Xác định tai nạn giao thông là hậu quả không mong muốn xảy ra, khi xảy ra thì phải giải quyết, xử lý nên cần quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, tổ chức có liên quan; có sự kết nối giữa các cơ sở dữ liệu liên quan; theo đó, dự thảo Luật đã bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông; trách nhiệm của cơ quan Y tế; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; trách nhiệm của cơ quan Công an; trách nhiệm của cơ quan Quân đội; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị bảo trì, khai thác đường bộ và cơ quan, đơn vị đăng kiểm; trách nhiệm của cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm.
- Cơ quan, doanh nghiệp bảo hiểm khi được thông báo về vụ TNGT phải có trách nhiệm tới ngay hiện trường để phối hợp với cơ quan có thẩm quyền điều tra, giải quyết vụ TNGT, cấp cứu người bị nạn. Đồng thời phải giải quyết bồi thường thiệt hại do TNGT gây ra đúng quy định.
- Tai nạn giao thông đường bộ là sự việc không mong muốn xảy ra, khi xảy ra tai nạn sẽ gây hậu quả thiệt hại về người và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 có quy định nhưng giản đơn, chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, tản mát ở vài điều luật, chủ yếu hướng dẫn tại các thông tư của các bộ, hiệu lực pháp lý chưa cao, do đó Luật này quy định rất chi tiết những nội dung sau:
+ Những hành vi vi phạm do cá nhân, tổ chức thực hiện phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật;
+ Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thuộc các bộ, ngành có liên quan đến giải quyết tai nạn giao thông nhằm tránh hiện tượng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khi giải quyết hậu quả của vụ tai nạn giao thông nhằm giảm thiểu hậu quả vụ tai nạn (đây là quy định mới);
+ Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho các bên liên quan trong vụ tai nạn giao thông phải căn cứ vào kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh, xác định rõ nguyên nhân, hậu quả để làm căn cứ bồi thường không có chuyện “xe to đền xe nhỏ”;
+ Điều tra, xác minh, giải quyết vụ tai nạn giao thông phải làm rõ nguyên nhân do con người, do cơ sở hạ tầng giao thông hay do phương tiện không đảm bảo an toàn hoặc các yếu tố bất ngờ gây ra làm căn cứ xác định trách nhiệm của người có liên quan trong vụ tai nạn; trách nhiệm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc quản lý nguồn nguy hiểm gây tai nạn. (Đ57)
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông dùng chung; quy định cách thống kê, báo cáo đánh giá chỉ số tăng, giảm về tai nạn giao thông cho phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới theo cách tính số vụ, số người chết, số người bị thương trên100.000 dân, trên 10.000 phương tiện giao thông và thời hạn tính chết do tai nạn giao thông trong 30 ngày, kể từ ngày xảy ra vụ tai nạn.
+ Phối hợp với Bộ Y tế để thống nhất số liệu thiệt hại về người do tai nạn giao thông gây ra.
- Ngoài ra, trong dự án Luật cũng quy định rõ thế nào là tai nạn giao thông đường bộ để phân biệt với các dạng tai nạn khác, đồng thời cũng là căn cứ để các cơ quan, đơn vị thực hiện trách nhiệm của mình theo đúng quy định của pháp luật. (K15-Đ3).
11. Ưu tiên ứng dụng khoa học kỹ thuật trong quản lý, điều hành và bảo đảm TTATGT đường bộ
- Luật đã đề cập tới những chính sách của Nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, quy định việc trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; cải cách hành chính, phục vụ nhân dân; khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác này. (K1,2-Đ5)
- Trong đó quy định cụ thể về “Trung tâm chỉ huy giao thông”gồm: hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông; hệ thống điều khiển đèn tín hiệu giao thông; hệ thống thông tin liên lạc; chỉ huy điều hành giao thông và hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung và chuyên ngành. Đồng thời cũng quy định về“Cơ sở dữ liệu dùng chungtrong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ” để phục vụ công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, công tác bảo đảm an ninh, trật tự và các công tác quản lý nhà nước khác có liên quan, gồm: Cơ sở dữ liệu về phương tiện giao thông; về người điều khiển phương tiện giao thông;về bảo hiểm của chủ xe cơ giới;về tổ chức giao thông;về vi phạm hành chính;về tai nạn giao thông.
- Đồng thời Luật cũng quy định theo hướng chủ yếu sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong phát hiện, xử lý vi phạm, đặc biệt là hệ thống giám sát và hệ thống camera quan sát, hướng đến giảm dần việc phát hiện, dừng trực tiếp phương tiện; đồng thời có cơ chế tiếp nhận thông tin, hình ảnh vi phạm trật tự, an toàn giao thông do tổ chức, cá nhân cung cấp làm căn cứ xác định và xử lý vi phạm. Lực lượng Cảnh sát giao thông là lực lượng chịu trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên các tuyến giao thông đường bộ; luật cũng quy định các căn cứ dừng phương tiện để kiểm soát, xử lý vi phạm; những hình thức phát hiện vi phạm.