Thách thức trong xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp dừa an toàn
Trước những thách thức từ biến đổi khí hậu, dịch hại mới nổi, ô nhiễm môi trường và biến động thị trường quốc tế, việc xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp dừa an toàn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của bốn chủ thể: nhà nước, nhà khoa học, hiệp hội dừa và doanh nghiệp.
Đây là nhận định của bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam, tại diễn đàn “Truyền thông quản lý sức khỏe cây dừa Việt Nam đáp ứng yêu cầu sản xuất gắn với người tiêu dùng”.

Mỗi năm Việt Nam sản xuất hơn 2 triệu tấn dừa, trở thành quốc gia đứng thứ 4 khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ 5 thế giới về xuất khẩu dừa.
Tái cấu trúc theo hướng “xanh”
Theo bà Thanh, giải pháp an toàn trong canh tác và bảo vệ thực vật cho cây dừa không chỉ là yêu cầu kỹ thuật nhằm phòng trừ sâu bệnh hay nâng cao năng suất, mà còn là định hướng chiến lược để tái cấu trúc ngành dừa Việt Nam theo hướng sinh thái - tuần hoàn - ít phát thải. Đây là con đường duy nhất giúp ngành dừa hội nhập sâu với thị trường toàn cầu, đáp ứng các tiêu chuẩn “xanh” và “trách nhiệm xã hội” ngày càng khắt khe.

Bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam trình bày về 4 chủ thể trong hệ sinh thái dừa an toàn tại diễn đàn.
Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam cho rằng, trước những thách thức từ biến đổi khí hậu, dịch hại mới nổi (như sâu đầu đen), ô nhiễm môi trường và biến động thị trường quốc tế, việc xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp dừa an toàn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của bốn chủ thể: nhà nước giữ vai trò hoạch định chính sách, ban hành tiêu chuẩn, hỗ trợ tín dụng xanh và giám sát chất lượng nông sản.
Trong khi đó, các viện, trường và nhà khoa học đảm nhiệm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển giống dừa kháng bệnh, quy trình IPM, và mô hình canh tác thích ứng sinh thái. Hiệp hội dừa là trung tâm kết nối, điều phối chiến lược, phản biện chính sách và thúc đẩy thương hiệu quốc gia. Còn doanh nghiệp và hợp tác xã trực tiếp tổ chức vùng nguyên liệu, áp dụng công nghệ sinh học, truy xuất nguồn gốc, chế biến sâu và tạo việc làm bền vững cho cộng đồng.
“Khi các lực lượng này cùng vận hành trong một chuỗi giá trị thống nhất, giải pháp an toàn không chỉ dừng lại ở biện pháp kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh, mà trở thành một triết lý phát triển: “Lấy an toàn làm nền - lấy bền vững làm mục tiêu - lấy con người và sinh thái làm trung tâm”.
Về lâu dài, hướng đi này sẽ góp phần xây dựng thương hiệu “Dừa Việt Nam xanh và an toàn”, tạo vị thế cạnh tranh quốc tế, đồng thời giúp nông dân thoát khỏi vòng luẩn quẩn sản xuất nhỏ lẻ, hướng đến một nền nông nghiệp dừa sinh thái, có trách nhiệm và hội nhập - phù hợp với tinh thần của chiến lược phát triển nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn, ít phát thải đến năm 2050”, Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam lý giải.

Nông dân miền Tây chế biến dừa.
Về phía doanh nghiệp,ông Nguyễn Hoàng Kiệt - Giám đốc Hợp tác xã Dừa Tiền Giang cho biết, hiện nay đơn vị đang gặp nhiều khó khăn trong việc thu gom dừa do giá cả bấp bênh, thường xuyên biến động theo thị trường. Các nhà máy chế biến dừa cũng rơi vào tình trạng “ngâm vốn”, chậm thanh toán, khiến hợp tác xã thiếu nguồn lực duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. “Mặc dù đã nhiều lần kiến nghị, song việc tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi cho nông dân và hợp tác xã vẫn chưa có giải pháp cụ thể từ phía ngân hàng”, ông Kiệt nêu.
Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp
Đại diện các nhà khoa học, PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết,Việt Nam có diện tích trồng dừa hơn 200.000 ha (ĐBSCL chiếm 80%), mỗi năm cả nước sản xuất hơn 2 triệu tấn dừa, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 4 khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thứ 5 thế giới về xuất khẩu dừa.
Kết quả điều tra của viện cho thấy, cả nước có 854 cơ sở sản xuất, chế biến dừa, với tổng công suất thiết kế 7.088 tấn/ngày (thực tế 5.355 tấn/ngày), các nhà máy chế biến lớn tập trung ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và Tiền Giang. Việt Nam có thuận lợi là điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm truyền thống sản xuất và chế biến sản phẩm từ quả dừa, thị trường quốc tế có nhu cầu lớn và liên tục được mở rộng. Xu hướng tiêu dùng các sản phẩm “tự nhiên”, “xanh”, “hữu cơ” ngày càng phổ biến.
Tuy nhiên, ngành vẫn đối mặt nhiều thách thức, như chế biến chỉ khoảng 30% sản phẩm hiện được chế biến sâu theo chuỗi giá trị. Các sản phẩm chủ yếu gồm nước dừa, sữa dừa, dầu dừa, cơm dừa nạo sấy, kẹo dừa, bánh dừa, than hoạt tính từ gáo dừa, cùng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và vật liệu từ xơ dừa như thảm, nệm, lưới trồng cây. Một số công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng như tiệt trùng nhiệt độ cao (UHT) cho nước dừa, đóng gói vô trùng và tách chiết dầu tinh khiết bằng công nghệ ly tâm lạnh, song phần lớn thiết bị vẫn phải nhập khẩu.
Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn, để nâng cao năng lực ngành dừa, cần xác định rõ đối tượng, sản phẩm chủ lực và quy mô sản xuất phù hợp với từng vùng sinh thái. Đánh giá khả năng đầu tư, nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ để lựa chọn hướng phát triển bền vững. Hỗ trợ doanh nghiệp lựa chọn công nghệ, thiết bị và thiết kế xây dựng nhà xưởng chế biến đạt chuẩn quốc tế, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản.
Ông Tuấn đề xuất, nhà nước và các cơ quan chuyên môn tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong cải tiến kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ quốc tế và kết nối hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài. Tổng hợp nhu cầu đổi mới công nghệ để đề xuất và triển khai các nhiệm vụ khoa học - công nghệ phù hợp, từ đó kết nối giải quyết các vấn đề từ giống, gen đến thị trường tiêu thụ.

Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Quý Dương đánh giá, diễn đàn có ý nghĩa đặc biệt, bởi ngành dừa hiện đã trở thành một ngành hàng tỷ đô la, đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp và xuất khẩu của Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Quý Dương, các ý kiến tập trung nhiều vào hai lĩnh vực then chốt như: phát triển giống dừa chất lượng cao, phù hợp cho cả tiêu dùng tươi và chế biến, có năng suất tốt, khả năng thích nghi với biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng mở rộng vùng nguyên liệu. Đồng thời đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản và sau thu hoạch, nhằm gia tăng giá trị sâu cho sản phẩm dừa, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Ông Dương khẳng định, sẽ tiếp thu và đưa các nội dung được thảo luận từ đại diện các chủ thể trên vào kế hoạch làm việc, kể cả những chương trình chuyên sâu hơn, nhằm thúc đẩy phát triển cây dừa Việt Nam nói chung và đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.











