Thận trọng khi dùng hoa sứ làm thuốc
Trong y học cổ truyền, các bộ phận của hoa đại (còn gọi hoa sứ) đều có thể sử dụng để làm thuốc. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể sử dụng các chế phẩm được tinh chế từ loại cây kiểng quen thuộc này.
Biểu tượng cho đất nước Chămpa
Cây đại có tên khoa học là Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey, thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), có nguồn gốc từ vùng Trung Mỹ và Caribe. Hoa của đại hoa đỏ (P. alba) là quốc hoa của Nicaragua và Lào, tại đây chúng được biết dưới các tên gọi tương ứng là "sacuanjoche" (Nicaragua) và "chăm pa" (Lào).
Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, Chăm pa. Ngoài ra, đại còn có tên là Miễn chi, Kê đảm tử. Cây đại ra hoa có màu từ trắng, vàng tới hồng, đỏ, phụ thuộc vào giống cây trồng.
Đây là loài cây bụi lớn hay cây thân gỗ nhỏ, có thể cao đến 8 - 10m, mủ trắng. Hoa thơm, nở vào mùa hè và mùa thu. Hoa đại chủ yếu tỏa hương về đêm nhằm lôi kéo các loài bướm nhân sư (họ Sphingidae) thụ phấn cho chúng. Lá mọc so le, bản to, hình bầu dục hay xoan thuôn, có mũi ngắn, không lông hoặc ít khi có lông ở mặt dưới. Hoa thường có tâm vàng; cánh hoa dày; nhị nhiều dính trên ống tràng. Quả đại choãi ra thẳng hàng, dài khoảng 10 - 15cm. Hạt có cánh mỏng.
Cây thường mọc hoang ở các đình chùa, các vườn hoa và được trồng bằng cành. Các loài đại rất dễ nhân giống bằng cách lấy các đoạn cành cắt ra từ phía đầu của các cành không có lá về mùa xuân và để khô phần gốc đoạn cắt trước khi cắm chúng vào trong đất.
Chúng cũng có thể nhân giống bằng cách giâm cành hay cho hạt cho nảy mầm. Cây được trồng nhiều vì có hoa đẹp, mùi thơm, nhiều bộ phận của cây có thể dùng làm thuốc.
Tác dụng làm thuốc của cây đại
Theo y học cổ truyền, các bộ phận sau của cây đại có thể sử dụng làm thuốc: Vỏ thân, vỏ rễ, hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cây, nhưng sử dụng nhiều nhất là hoa.
Toàn cây có chứa một kháng sinh thực vật là Fulvo plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Từng bộ phận khác nhau của cây có những công dụng khác nhau.
Vỏ thân, vỏ rễ: Trong vỏ thân có glucozit là Agoniadin và một chất đắng là Plumierit. Vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát. Dân gian sử dụng để làm thuốc tẩy xổ, nhuận tràng, chữa táo bón (thay thế cho Đại hoàng) và chữa thủy thũng.
Nhựa mủ: Thành phần chủ yếu là acid plumeric. Cũng có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân, khoảng 0,5 - 0,8g/ngày dưới dạng nhũ dịch. Nhựa còn được bôi ngoài để chữa chai chân và vết loét viêm tấy.
Lá cây: Kinh nghiệm dân gian dùng lá cây đại để chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt.
Hoa: Hoa có chứa tinh dầu, mùi thơm đặc trưng, là bộ phận được sử dụng nhiều nhất. Theo y học cổ truyền, hoa đại có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ áp. Người dân thường sử dụng cây hoa đại phơi khô để làm dùng thuốc chữa ho, kiết lỵ và tiêu chảy. Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi. Nên thu hái hoa khi vừa nở hết, phơi hay sấy khô để dùng dần.
Hoa đại có tác dụng hạ huyết áp. Điều này đã được chứng minh qua thực nghiệm. Tác dụng hạ áp xuất hiện nhanh và tương đối bền vững, không làm giãn mạch, không tác dụng với tuần hoàn ngoại biên.
Ai không được dùng hoa đại?
Hầu hết các bộ phận của cây đại đều có thể dùng để làm thuốc. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu so sánh tác dụng sinh học của loài đại cho hoa trắng với những loại đại có màu hoa khác.
Với trường hợp ho đờm, tăng huyết áp, khó ngủ, nhân dân thường dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng, được trồng làm cảnh ở đình chùa, nơi công cộng. Lưu ý, nếu đang sử dụng thuốc điều trị bệnh mạn tính, cần tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi dùng hoa đại. Người suy nhược, già yếu, phụ nữ có thai, tiêu chảy không nên dùng do các thành phần trong cây có tác dụng tẩy xổ khá mạnh.
Một số bài thuốc hay có dùng hoa đại
- Cao huyết áp: Bài thuốc kinh nghiệm thường dùng là hoa đại khô 100g, hoa cúc vàng khô 50g, hoa hòe (sao vàng) 50g, hạt thảo quyết minh (sao đen) 50g. Tất cả tán thành bột, chia thành gói 10g. Mỗi ngày dùng 1-2 gói, hãm uống thay nước chè trong ngày. Thuốc có tác dụng bảo vệ mao mạch, làm giảm nhẹ huyết áp, an thần nhẹ.
- Ho: Sử dụng 4 - 12g hoa đại khô, sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày.
- Chân răng sưng đau: Vỏ rễ ngâm rượu, dùng ngậm, rất có hiệu quả (chú ý, không được nuốt).
- Bong gân: Dùng một lá tươi rửa sạch, giã nhuyễn, trộn với một ít muối ăn đắp lên chỗ sưng. Lại dùng một ít lá tươi khác, hơ lên lửa cho héo và đắp lên phía ngoài rồi cố định lại bằng băng hoặc bằng vải sạch. Ngày đắp 1 - 3 lần liên tục như vậy 1 - 2 ngày tùy theo bệnh nặng hay nhẹ.
- Đau nhức hay mụn nhọt: cũng dùng lá tươi giã nhuyễn, đắp vào những nơi bị bệnh.
ThS-BS. Nguyễn Lê Việt Hùng (Đại học Y dược TP.HCM)
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/than-trong-khi-dung-hoa-su-lam-thuoc-37765.html