Thanh Hóa: Phụ nữ, trẻ em gái dân tộc thiếu số vẫn khó tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên đã có khảo sát và tham luận: 'Các rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa'. Phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên, Trường Đại học Hồng Đức, người thực hiện nghiên cứu thực tế này tại Thanh Hóa.

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

PV: Thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên, từ kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế tại Thanh Hóa, bà có thể cho biết những rào cản chính nào khiến phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở đây gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên: Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã nhận diện được phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa đang gặp phải nhiều rào cản mang tính hệ thống và đan xen trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu. Cụ thể, có thể chia thành 5 nhóm rào cản chính:

Thứ nhất là rào cản về địa lý. Thanh Hóa là tỉnh có địa hình chia cắt phức tạp, nhiều vùng núi cao, sông suối hiểm trở. Đồng bào dân tộc thiểu số thường sống tập trung ở các vùng sâu, vùng xa, cách trung tâm y tế hàng chục cây số. Nhiều tuyến đường vào các bản làng còn khó khăn, nhất là mùa mưa lũ.

Năm 2022, toàn tỉnh vẫn còn 1.200 km đường nông thôn chưa bê tông hóa. Khoảng cách xa, giao thông trở thành trở ngại trực tiếp đến khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nhất là các trường hợp cấp cứu, khám thai định kỳ, tiêm chủng…

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên

Thứ hai là rào cản về kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện miền núi, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, còn rất cao: huyện Mường Lát là 64,57%, Quan Hóa 49,65%… Cùng với đó là kinh tế còn nhiều khó khăn.

Do đó, khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của nhiều gia đình rất hạn chế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế còn thấp (năm 2021 mới đạt khoảng 70%, so với 85% toàn tỉnh). Ngoài ra, chi phí khám chữa bệnh, thuốc men, đi lại cũng tạo thêm gánh nặng tài chính đáng kể với các gia đình nghèo.

Thứ ba là rào cản về văn hóa - xã hội. Một số dân tộc như Mông, Thái, Khơ Mú… vẫn còn duy trì một số tập quán không còn phù hợp như tảo hôn, sinh con tại nhà, kiêng cữ sau sinh quá mức, hoặc tin vào thầy cúng, thầy lang hơn là đến cơ sở y tế...

Rào cản ngôn ngữ giữa người dân tộc thiểu số và cán bộ y tế cũng là một thách thức lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình tư vấn và khám chữa bệnh.

Thứ tư là rào cản từ chính hệ thống y tế. Năng lực của hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, còn nhiều bất cập về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực. Tính đến năm 2021, tỷ lệ trạm y tế đạt chuẩn quốc gia mới đạt 70%. Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu, khiến người dân ít tin tưởng, chưa sẵn sàng tiếp cận.

Cuối cùng là rào cản về thông tin. Hạn chế về trình độ học vấn và khả năng tiếp cận các phương tiện truyền thông khiến nhiều người không nắm được thông tin về các chính sách hỗ trợ, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí hoặc chi phí thấp.

Việc tiếp cận các phương tiện truyền thông còn hạn chế và các tài liệu truyền thông chưa được chuyển ngữ đầy đủ cũng khiến họ khó tiếp nhận thông tin y tế một cách chính xác.

Ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc ít người, tỷ lệ đẻ tại nhà của phụ nữ DTTS còn cao

Ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc ít người, tỷ lệ đẻ tại nhà của phụ nữ DTTS còn cao

PV: Theo bà, những hệ lụy mà các rào cản này gây ra đối với phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số là gì?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên: Các rào cản nêu trên không chỉ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế mà còn gây ra nhiều hệ lụy đa chiều và nghiêm trọng.

Đầu tiên là về sức khỏe sinh sản của phụ nữ và trẻ em gái. Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi của Thanh Hóa được khám thai 4 lần mới đạt khoảng 50%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình cả nước. Tỷ lệ sinh con tại nhà ở các huyện miền núi vẫn còn rất cao, chiếm khoảng 40-60%.

Điều này dẫn đến tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh ở khu vực này vẫn còn ở mức cao. Trẻ em gái không được chăm sóc đầy đủ có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng, mắc các bệnh truyền nhiễm, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn trí tuệ, cũng như cơ hội phát triển trong tương lai.

Việc thiếu kiến thức chăm sóc sức khỏe cũng khiến các em dễ bị tổn thương trước các vấn nạn tảo hôn, mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và bạo lực gia đình.

Xa hơn, những hệ lụy này còn làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, đồng thời làm sâu sắc thêm tình trạng bất bình đẳng xã hội giữa các nhóm dân cư.

PV: Trong tham luận, bà có đề xuất những giải pháp gì để cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên: Để giải quyết tình trạng này, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ, cụ thể:

Một là, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, xây dựng thêm trạm y tế, tổ chức các đội y tế lưu động và triển khai mô hình khám chữa bệnh từ xa.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Hai là, hỗ trợ tài chính cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số khi đi khám, sinh đẻ, tiêm chủng; vận động để tăng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, đồng thời đẩy mạnh các chương trình giảm nghèo bền vững, tạo việc làm để tăng thu nhập cho đồng bào.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình bằng tiếng dân tộc và qua các kênh phù hợp với văn hóa bản địa. Song song đó, cần ưu tiên đào tạo cán bộ y tế người dân tộc thiểu số, tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ y tế về kỹ năng giao tiếp, chăm sóc phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số.

Bốn là, cải thiện chất lượng dịch vụ y tế, nâng cấp trang thiết bị, tăng cường nhân lực cho y tế cơ sở; thiết kế các chương trình y tế phù hợp với phong tục, ngôn ngữ của đồng bào.

Năm là, phát triển các kênh thông tin y tế đa dạng, sử dụng ngôn ngữ dân tộc, hình ảnh, video dễ hiểu, tổ chức truyền thông cộng đồng, tư vấn trực tiếp, ứng dụng công nghệ thông tin vào truyền thông sức khỏe.

Đặc biệt, Dự án 8 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã và đang hỗ trợ hiệu quả, vận động phụ nữ khám thai định kỳ, sinh tại cơ sở y tế, hỗ trợ chi phí, tập huấn cán bộ y tế, xây dựng các mô hình chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng. Chúng tôi kỳ vọng sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này.

PV: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong việc tháo gỡ các rào cản và hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ y tế tốt hơn, thưa bà?

Tiến sĩ Nguyễn Thị Duyên: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có thể đóng một vai trò then chốt và đa diện.

Thứ nhất, Hội cần chủ động hơn nữa trong việc vận động chính sách, đề xuất chính quyền các cấp ưu tiên nguồn lực cho y tế miền núi, dân tộc thiểu số; đồng thời tham gia giám sát việc thực hiện các chính sách y tế tại địa phương.

Thứ hai, với mạng lưới rộng khắp, Hội là kênh truyền thông hiệu quả nhất để tuyên truyền, phổ biến kiến thức về sức khỏe sinh sản, phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc trẻ em bằng ngôn ngữ bản địa. Hội cũng nên tổ chức các lớp tập huấn, các buổi giao lưu chia sẻ kinh nghiệm giữa các nhóm dân tộc.

Cuối cùng, Hội có thể phát huy vai trò cầu nối, kết nối với các tổ chức quốc tế như UNFPA, WHO, UNICEF… để tranh thủ nguồn lực kỹ thuật và tài chính, triển khai các dự án hỗ trợ cộng đồng dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái.

PV: Trân trọng cảm ơn bà đã chia sẻ!

Trường Lê (thực hiện)

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/thanh-hoa-phu-nu-tre-em-gai-dan-toc-thieu-so-van-kho-tiep-can-dich-vu-cham-soc-suc-khoe-20250624100926105.htm