Thầy Vỹ 'cắm bản' và những câu chuyện tử tế
Hơn 24 năm gắn bó với vùng cao, thầy Nguyễn Trần Vỹ được nhiều người biết đến bởi những việc tử tế anh bền bỉ làm cho học trò và bản làng vùng Nam Trà My (TP. Đà Nẵng).
“Vỹ cái bang” của học sinh
Đón chúng tôi ở đầu con dốc cao dựng đứng tại ngôi trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Ngọc Linh (xã Trà Linh, TP. Đà Nẵng), nơi anh mới vừa chuyển về để làm Hiệu phó, với nụ cười hiền.
“Xa nhỉ? Nhưng chừng này chưa là gì so với quãng đường mà các em học sinh nơi đây phải lội bộ tới trường đâu!”, anh Vỹ cười rồi vẫy tay, kéo chúng tôi vào ngồi tạm ở quán tạp hóa gần đó.

Thầy giáo Nguyễn Trần Vỹ (46 tuổi, Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Ngọc Linh, xã Trà Linh, TP Đà Nẵng) đã có gần 25 năm gắn bó với học sinh vùng cao. Ảnh: Nguyễn Dương
Hành trình gần 25 năm ở miền núi xa xôi cách trở này như một hồi ức mà thầy giáo Nguyễn Trần Vỹ (46 tuổi, Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Ngọc Linh, xã Trà Linh, TP. Đà Nẵng) chưa bao giờ quên. “Nói đúng ra là mình đã chọn ở lại với bản, với nóc, với các học sinh còn đi học bằng đôi chân trần lấm lem bùn đất. Là bữa ăn chỉ có cơm trắng và chén muối giã với ớt qua ngày. Không bỏ được! Mà không bỏ được thì tìm cách để cái thiện giúp mấy đứa, chớ không thể để như thế được”, anh Vỹ bắt đầu câu chuyện với lý do mình chọn gắn bó với học sinh dưới dãy Ngọc Linh hùng vĩ này.
Sau khi tốt nghiệp ngành Sư phạm năm 2000, Vỹ tình nguyện về giảng dạy tại điểm trường Tắc Lũ (xã Trà Cang, huyện Nam Trà My cũ), nơi được mệnh danh là "khó khăn nhất nhì" của huyện. Để đến được trường phải đi bộ nhiều giờ, vượt qua những con dốc dựng đứng, trơn trượt, những lối mòn lởm chởm đá và bùn. Vì thế, khi đến được trường thì thầy trò đều lấm lem bùn đất. Những ngày đầu ấy, lớp học chỉ là mái tranh vách đất, nền còn là đất nện. Các thầy cô chen chúc trong nhà công vụ chật hẹp, thiếu thốn đủ bề.

Thầy Vỹ trong một chuyến vượt hàng chục km đường rừng đưa giày dép, đồ dùng về cho học sinh. Ảnh: Nguyễn Dương
Thấy mấy đứa nhỏ đi học chân trần, cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm mà lòng cứ đau đáu. Dạy chữ nhưng mong mỏi làm sao phải lo cho các em chỗ học tử tế đã. Vậy là Vỹ đi xin. Xin theo đúng nghĩa đen, tìm tới những nhà hảo tâm, xin từng đôi dép, cái áo ấm hay từng con cá, miếng thịt để cải thiện bữa ăn cho học sinh. “Lúc đầu cũng ngại lắm. Chẳng biết làm sao để mở lời. Đắn đo suốt, rồi cũng trình bày thật với họ, may là được đồng ý. Riết rồi thành quen, giờ thấy ai có thể hỗ trợ được các em học sinh là mình xin hết, miễn cuộc sống của các em được tốt hơn”, Vỹ cười. Biệt danh “Vỹ cái bang” cũng từ đó mà ra.
Cũng từ đó, ý tưởng thành lập một câu lạc bộ thiện nguyện Kết nối yêu thương ra đời. Ban đầu, CLB chỉ có vài giáo viên và cán bộ làm công tác giáo dục tham gia. Không có tiền, họ tự bỏ tiền túi để khảo sát từng bản làng, từng điểm trường. Mục tiêu đầu tiên mỗi năm là tráng nền xi măng cho ít nhất một phòng học để thay nền đất.
“Công trình đầu tiên là điểm trường Măng Lưng ở xã Trà Cang. Hôm khánh thành, nhìn mấy đứa nhỏ ngồi trong lớp mới, ai cũng xúc động. Tự nhiên thấy mình đang đi đúng, làm đúng. Rồi cứ thế, CLB lớn dần, kết nối được nhiều hơn, nhiều điểm trường mới cũng được dựng lên bằng tấm chân tình đó”, anh Vỹ nhớ lại.
Nhờ sự kết nối bền bỉ của thầy và các thành viên, dần dần nhiều mạnh thường quân, nhà hảo tâm khắp nơi đã chung tay hỗ trợ. Từ Trà Mai, Trà Cang, đến tận những bản làng heo hút như Trà Linh, Trà Vinh… hàng chục điểm trường đã được dựng lên kiên cố giữa đại ngàn.

Lặn lội mang về cho các em học sinh từng chiếc chăn ấm. Ảnh: Nguyễn Dương
Đến nay, câu lạc bộ do thầy Vỹ làm chủ nhiệm đã góp phần xây dựng gần 50 điểm trường, hơn 100 phòng học, phòng công vụ, nhà vệ sinh, bếp ăn, và 5 khu nội trú cho hơn 1.000 học sinh. Ngoài ra, hàng nghìn phần quà gồm sách vở, áo ấm, đồ dùng dạy học và điện năng lượng mặt trời cũng đã được trao đến tay thầy cô và học trò vùng cao.
“Có khi nào anh bị người ta nói, vì tiền thiện nguyện là một cái gì đó rất mơ hồ. Nếu làm không khéo, dễ mang tiếng lắm?”, tôi hỏi. Mất một lúc lâu, thầy Vỹ trầm ngâm, như đang hồi tưởng lại những gì đã qua, rồi giọng trầm trầm: “Có chứ, nhiều là đằng khác. Người chửi tôi khùng, vác tù và hàng tổng, người bảo tôi là cái bang, cái gì cũng xin. Nhưng mỗi lần nhìn học trò được ăn bữa cơm no, uống hộp sữa thì tự nhiên mất hết”, thầy cười.
Cũng theo thầy Vỹ, mình chỉ làm cầu nối để các CLB thiện nguyện hay các nhà hảo tâm kết nối với những nơi khó khăn cần giúp đỡ. “Mình không trực tiếp nhận tiền, phần vì cần mọi thứ liên quan đến chuyện thiện nguyện cần phải công khai rõ ràng, phần vì còn công tác chuyên môn nữa. Nên tốt nhất mình cứ kết nối các bên, rồi góp sức, được cái gì hay cái đó”, thầy Vỹ nói.

Từ sự kêu gọi, kết nối của thầy Vỹ và các thành viên Câu lạc bộ Kết nối yêu thương, gần 50 điểm trường mới đã được xây dựng. Ảnh: Nguyễn Dương
Người xây những công trình từ tình thương
Không dừng lại ở bục giảng, thầy Vỹ trăn trở trước sự thiếu thốn trăm bề của học trò và đồng bào. Từ đó, hành trình vận động, kêu gọi các nguồn lực xã hội để dựng xây những công trình thiết thực bắt đầu.
Trong những lần lên các bản làng, những nóc nhà chênh vênh dưới dãy Ngọc Linh để vận động học sinh quay lại trường sau kì nghỉ hè, chứng kiến được đi lại khó khăn của bà con nơi đây, đặc biệt là vào mưa lũ. “Nhiều khi, học sinh phải lội qua những con suối đang cuộn mình dữ dội. Dáng nhỏ chơi vơi giữa dòng nước, tự nhiên rùng mình, cứ nghĩ tới điều xấu nhất có thể xảy ra. Rứa là lại đi xin kinh phí để làm được chiếc cầu treo bắc qua suối”, anh Vỹ kể.

Một công trình cầu dân sinh vắt ngang suối sâu được xây dựng từ những tấm lòng thiện nguyện. Ảnh: Nguyễn Dương
Trong giai đoạn 2020 - 2025, bằng sự kết nối bền bỉ, thầy đã xây dựng và cải tạo 15 điểm trường với 28 phòng học và 15 nhà công vụ, tổng trị giá hơn 8,5 tỷ đồng. Hai mươi sáu cây cầu dân sinh vắt ngang suối sâu với tổng trị giá gần 3 tỉ đồng, giúp học trò an toàn đến lớp mỗi mùa mưa lũ. Bốn khu nội trú khang trang đã được dựng lên, đón hơn một nghìn học sinh, cùng với 38 căn nhà tình thương cho hộ nghèo, 23 hệ thống lọc nước sạch, 14 bếp ăn, 21 sân chơi, hàng chục máy tính, tivi, máy nổ…
Cũng từ những chuyến đi thực địa, thầy chứng kiến không ít hoàn cảnh học sinh mồ côi, hoặc cả gia đình chen chúc trong những căn nhà lá tạm bợ. Xót lòng trước cảnh ấy, thầy lại tiếp tục vận động xây dựng khoảng 40 căn nhà tình thương, cùng với hàng chục giếng nước khoan giúp bà con có nước sạch sinh hoạt.
Tất cả các công trình đều được khảo sát kỹ lưỡng, minh bạch về kinh phí và do chính người dân địa phương cùng góp công xây dựng. “Thấy trường sập thì xin xây lại. Thấy đường khó đi thì xin làm cầu. Thấy bà con khổ quá thì xin xây nhà. Mình chỉ là người kết nối thôi, còn người giúp thật sự là các nhà hảo tâm. Nhờ họ mà hành trình này mới đi được đến hôm nay”, trong ánh mắt của người đàn ông nhỏ thó này, ánh lên niềm tự hào không thể diễn tả bằng lời.
Hành trình của người đàn ông này vẫn đang từng ngày tiếp nối, gieo những yêu thương xuống mảnh đất còn đầy rẫy khó khăn. Anh đã từng nói với tôi rằng, chỉ khi nào sức khỏe không còn đủ nữa thì sẽ dừng lại. “Vẫn còn nhiều bản làng chưa có trường, nhiều học sinh vẫn đi học bằng đôi chân trần, nhiều bà con vẫn sống trong cảnh thiếu thốn. Điều đó như thôi thúc chúng tôi mỗi ngày”, anh cười hiền.

Chân dung thầy giáo Nguyễn Trần Vỹ, người chọn ở lại với bản làng, với các em học sinh còn đi học bằng đôi chân trần. Ảnh: Nguyễn Dương
Với những việc làm thiết thực đó, thầy Vỹ nhận được Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bằng khen của Trung ương Hội Chữ thập đỏ, Giải thưởng Tình nguyện quốc gia, Giải thưởng nhân vật ấn tượng tại Lễ trao giải báo chí toàn quốc về sự nghiệp giáo dục Việt Nam năm 2022, Bằng khen của Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng…
Tháng 8/2025, Trường PTDTBT Tiểu học Ngọc Linh đã đề nghị xét chọn thầy là gương điển hình tiên tiến để tuyên dương tại Đại hội Thi đua yêu nước thành phố lần thứ I giai đoạn 2025 - 2030.
Anh cười lớn khi nghe tôi hỏi về những bằng khen mà mình đã nhận được bằng một câu đùa tếu táo, nhưng thật, thật như chính những việc anh làm: “Nhờ những bằng khen đó nên hình như mình cũng có thương hiệu luôn. Đi xin, thấy cái mặt mình là họ cười rồi hỏi: bao nhiêu, cho ai? Rồi đồng ý. Rứa là sướng, là vui. Vui cho bản làng, cho sắp nhỏ đang cần mình góp sức”.
Thầy Nguyễn Trần Vỹ đã có hơn 24 năm gắn bó với học trò vùng cao Đà Nẵng (tỉnh Quảng Nam cũ). Từ việc đi xin từng đôi dép, áo ấm, đến vận động xây trường, dựng cầu, nhà tình thương, thầy trở thành cầu nối cho nhiều nhà hảo tâm. "Quả ngọt" từ sự bền bỉ của thầy là hàng chục điểm trường, khu nội trú, cây cầu dân sinh và công trình thiết thực đã ra đời, giúp hàng nghìn học sinh có điều kiện đến lớp an toàn. Với thầy, niềm vui lớn nhất là học trò no ấm, bản làng bớt khó khăn.
Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/thay-vy-cam-ban-va-nhung-cau-chuyen-tu-te-420775.html