'Thế trận lòng dân' - Nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở các tỉnh, thành phố phía Nam

Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, việc xây dựng 'thế trận lòng dân' là nền tảng vững chắc để cả nước nói chung, các tỉnh, thành phố phía Nam nói riêng thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân giúp dân cứu lúa ở đồng bằng sông Cửu Long (Nguồn: tienphong.vn)

Cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân giúp dân cứu lúa ở đồng bằng sông Cửu Long (Nguồn: tienphong.vn)

1- Dựng nước đi đôi với giữ nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Bài học lịch sử đó được cụ thể hóa ở sự gắn kết chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang nỗ lực thực hiện. Trong mối quan hệ khăng khít đó, “thế trận lòng dân” đóng vai trò nền tảng, góp phần quyết định sự thành công.

“Thế trận lòng dân” phản ánh mối quan hệ máu thịt, gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; sự tin tưởng, đồng thuận, hưởng ứng, ủng hộ của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân trong tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” là nền tảng vững chắc quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Thế trận lòng dân” được thể hiện cụ thể qua niềm tin, ý chí, hành động và thái độ của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là việc quy tụ, tập hợp, khơi dậy và phát huy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng; niềm tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến, đổi mới sáng tạo; nâng cao tinh thần cảnh giác, ý chí chiến đấu quyết chiến, quyết thắng, khả năng chịu đựng gian khổ, hy sinh của nhân dân, làm cơ sở vững chắc để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2- Các tỉnh, thành phố phía Nam được xem là địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; một trong những vùng trọng điểm, có nhiều tiềm năng, lợi thế, năng động, sáng tạo, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực phát triển chung cho cả nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng “thế trận lòng dân”; nhất quán và xuất phát từ lợi ích thiết thực, lâu dài của nhân dân nên các tỉnh, thành phố phía Nam không ngừng chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc. Cấp ủy, chính quyền các địa phương, lực lượng vũ trang đã tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Các tỉnh, thành phố phía Nam đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, như giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, xóa nhà tạm, nhà dột nát...; tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh thực hiện chính sách hòa giải, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc...

Sau 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, các tỉnh, thành phố phía Nam đã trở thành những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ hàng đầu cả nước. Nhiều địa phương trở thành đầu tàu tăng trưởng kinh tế, cửa ngõ giao thương quốc tế quan trọng của Việt Nam, tiêu biểu là các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục - đào tạo của vùng kinh tế trọng điểm cả nước. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 7-12-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đánh giá sự năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm của vùng Đông Nam Bộ: Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm toàn vùng (GRDP) theo giá hiện hành gấp 4,9 lần so với năm 2005 và 2,6 lần so với năm 2010, vượt mục tiêu đề ra; đóng góp 32% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), 44,7% tổng thu ngân sách nhà nước.

Diện mạo các địa phương thay đổi rõ nét, đời sống nhân dân được nâng cao, an sinh xã hội được chú trọng, bản sắc văn hóa Nam Bộ được gìn giữ và phát huy; nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, tham gia tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Đóng góp vào thành công đó, Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là các đơn vị, lực lượng đóng quân trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Nam luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, đội quân lao động, sản xuất, đẩy mạnh hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, nâng cao dân trí và phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, không ngừng củng cố “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Nam thời gian qua không chỉ là minh chứng sống động cho bản chất tốt đẹp của chế độ ta, mà còn là cơ sở vững chắc để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

3- Trong những năm tới, tình hình khu vực, thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Tình hình Biển Đông diễn biến khó lường. Cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tinh gọn tổ chức bộ máy... đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát huy tối đa vai trò của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, cần nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống anh hùng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, trở thành trụ cột chiến lược trong củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, bảo đảm các tỉnh, thành phố phía Nam phát triển nhanh, bền vững để thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân về vai trò quan trọng của “thế trận lòng dân”, quán triệt quan điểm “Dân là gốc” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục định hướng cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò quan trọng của “thế trận lòng dân”; tăng cường tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước, nhất là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa “thế trận lòng dân” với thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận văn hóa - tư tưởng trong tình hình hiện nay. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề, gắn với các sự kiện trọng đại của đất nước; phát huy tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng, phương tiện thông tin - truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đặc biệt, phải phát huy cao sức mạnh của văn hóa, truyền thống dân tộc trong việc xây dựng niềm tin, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thường xuyên củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các cấp quán triệt sâu sắc quan điểm: Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, sự hài lòng của nhân dân làm thước đo giá trị và mục tiêu phấn đấu. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp thật sự là công bộc của dân, có tư duy gần dân, trọng dân, vì dân. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân, bám sát phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực vào quá trình xây dựng Đảng và chính quyền, nhất là trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị của chính quyền địa phương hai cấp.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của cấp ủy gắn với thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị các tỉnh, thành phố phía Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên phát triển mới.

Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các tỉnh, thành phố cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở. Quán triệt, thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”... Gắn xây dựng Đảng về đạo đức với kiên quyết đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; thực hành dân chủ thực chất trong sinh hoạt đảng. Quán triệt, thực hiện tốt Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14-4-2025, của Bộ Chính trị, “Về đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng”; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông chuyên môn, sâu sát cơ sở, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên phát triển mới.

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, các kết luận, kế hoạch, đề án của Trung ương về sắp xếp lại đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương hai cấp nhằm mở rộng không gian, tạo động lực mới cho sự phát triển của từng địa phương và vùng tốt hơn. Đây là chủ trương lớn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, được Đảng, Nhà nước ta tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt thực hiện. Chú trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong quá trình sắp xếp, không làm gián đoạn công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội, sự hưởng ứng tích cực từ nhân dân.

Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các tỉnh, thành phố phía Nam.

Xây dựng “thế trận lòng dân” không thể chỉ dừng lại ở nhận thức, niềm tin, mà trên hết phải được hiện thực hóa bằng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và phát triển của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để người dân yên tâm gắn bó với quê hương, đất nước, tích cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc từ cơ sở; “gốc rễ” để tạo dựng niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước và chế độ; nền tảng để củng cố ý chí, trách nhiệm và sự đồng thuận xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, các tỉnh, thành phố phía Nam tập trung tạo việc làm, nâng cao thu nhập, mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, chú trọng các khu vực trọng yếu về quốc phòng - an ninh, địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tạo thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Các địa phương chủ động quy hoạch vùng kinh tế kết hợp quốc phòng, khai thác tiềm năng đất đai, rừng, biển, phát triển bền vững kinh tế biên mậu, du lịch xanh, kinh tế biển, kinh tế tuần hoàn gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh lâu dài. Quán triệt và thực hiện hiệu quả “Bộ tứ nghị quyết trụ cột” để Việt Nam cất cánh, nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế tư nhân”. Coi chuyển đổi số, kinh tế số là đòn bẩy để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, nhất là với khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo đột phá quan trọng, động lực để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; ưu tiên đầu tư hạ tầng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; phát triển đồng đều, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, giữa đô thị và nông thôn. Bảo đảm mọi người dân, không phân biệt vùng, miền, dân tộc, tôn giáo, được tiếp cận đầy đủ, công bằng các dịch vụ thiết yếu về giáo dục, y tế, điện, nước sạch, môi trường, thông tin - truyền thông hiện đại; thúc đẩy phát triển văn hóa cộng đồng và bảo tồn bản sắc dân tộc; tăng cường đầu tư đời sống văn hóa ở cơ sở, nhất là thiết chế văn hóa thôn, ấp, khu phố, để nơi đây thực sự trở thành “pháo đài lòng dân” - nơi quy tụ niềm tin, lòng yêu nước và ý chí đoàn kết toàn dân. Từng địa phương cần khai thác giá trị văn hóa, di sản lịch sử cách mạng để nuôi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết cộng đồng, khát vọng vươn lên và niềm tin vào tương lai đất nước trong mỗi

người dân.

Bốn là, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo nền tảng vững chắc để xây dựng “thế trận lòng dân”.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, là nền tảng bền vững bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Đại đoàn kết phải được xây dựng từ cơ sở, bắt đầu từ mỗi gia đình, khu dân cư, thôn, ấp, tổ dân phố; là kết tinh giữa truyền thống văn hóa dân tộc và giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cần tích cực đổi mới, đa dạng hóa hình thức vận động quần chúng nhân dân, nhất là ở địa bàn có yếu tố đặc thù, như vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào theo tôn giáo, biên giới, hải đảo. Tăng cường đối thoại, nắm bắt và giải quyết kịp thời vấn đề bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân, không để hình thành điểm nóng, khiếu kiện kéo dài hay bị lợi dụng xuyên tạc, kích động. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc hòng chia rẽ khối đại đoàn kết. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; tôn trọng sự đa dạng trong xã hội, nhưng trên nền tảng thống nhất về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tạo đồng thuận về lợi ích, niềm tin và trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng dân cư, chức sắc tôn giáo, nghệ nhân văn hóa, già làng, trưởng bản trong công tác vận động quần chúng, giữ gìn an ninh, trật tự; tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật; kiên quyết đấu tranh với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bảo đảm công bằng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích cá nhân; lấy sự hài lòng, đồng thuận và tham gia tích cực của nhân dân làm thước đo hiệu quả quản trị quốc gia.

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự vững mạnh, đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia tích cực vào xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội, thực sự lắng nghe nhân dân, nói đi đôi với làm, lấy hiệu quả phục vụ nhân dân làm mục tiêu hành động để nhân dân noi theo. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân lợi dụng, xâm phạm quyền tự do dân chủ, gây rối nội bộ, gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, làm phương hại quyền làm chủ của nhân dân.

Năm là, phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất cách mạng, truyền thống “trung với Đảng, hiếu với dân”, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, luôn giữ vai trò nòng cốt, tiên phong, không chỉ trong bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, mà còn trong gắn kết, củng cố niềm tin và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tình hình mới, xây dựng “thế trận lòng dân” là yêu cầu khách quan để quân đội gắn bó mật thiết, đồng hành, là điểm tựa tin cậy của nhân dân ở các tỉnh, thành phố phía Nam, nhất là địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là các đơn vị đóng quân trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Nam cần thực sự trở thành điểm tựa tin cậy của nhân dân, lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân; đồng hành cùng nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, cải thiện đời sống. Thường xuyên bám sát cơ sở, gần dân, hiểu dân, làm tốt công tác dân vận, đặc biệt là ở địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Cùng với đó, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Cán bộ, chiến sĩ quân đội cần phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu, nêu cao ý thức trách nhiệm trước nhân dân, làm cho hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ ngày càng lan tỏa sâu rộng. Đồng thời, tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn,... góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố niềm tin trong nhân dân. Để thực hiện tốt điều đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn, kỹ năng công tác, trong đó có kỹ năng công tác dân vận, để mỗi cán bộ, chiến sĩ trở thành cầu nối bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí. Lấy sự tin yêu, đồng thuận của nhân dân làm thước đo hiệu quả công tác, làm cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc.

Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là yêu cầu khách quan, vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ mới, bối cảnh mới, yêu cầu mới, việc xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tại các tỉnh, thành phố phía Nam phải được triển khai đồng bộ, linh hoạt, sát địa bàn, đối tượng. Mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là lực lượng vũ trang, cần xác định rõ trách nhiệm nêu gương, tiên phong, gần dân, vì dân, lấy sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân làm mục tiêu, động lực và thước đo hiệu quả công tác. Chỉ khi “ý Đảng”, “lòng dân” hòa quyện mới thực sự xây dựng được thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bền chặt, không thế lực thù địch nào có thể chia rẽ, chống phá. Giữ vững “thế trận lòng dân” là thành trì vững chắc nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đỗ Xuân Tụng, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Đỗ Xuân Tụng (*)

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/the-tran-long-dan-nen-tang-vung-chac-cho-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-o-cac-tinh-thanh-pho-phia-nam-388390.html