Thêm 85 dự án phát triển cộng đồng hỗ trợ hơn 1.500 hộ yếu thế ở Gia Lai
Sau sắp xếp đơn vị hành chính, Dự án 2 'Đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo' của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững ở Gia Lai triển khai thực hiện 85 dự án phát triển cộng đồng. Qua đó, hỗ trợ cho hơn 1.500 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ khuyết tật không có sinh kế ổn định.
Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, trong năm 2025, công tác triển khai các dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã đạt được một số kết quả.
Trước hết, Dự án 1 “Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế-xã hội các huyện nghèo” (huyện An Lão cũ, huyện Kông Chro cũ, gồm các xã: An Hòa, An Lão, An Toàn, An Vinh, Ya Ma, Kông Chro, Chư Krey, Chơ Long, Đăk Song, Sró) đã triển khai 58 công trình. Cụ thể, 27 công trình đã hoàn thành, 20 công trình đang thi công; 11 công trình đang phê duyệt dự án.

Xây dựng nhà cho người nghèo xã Đăk Trôi, Gia Lai. (Ảnh: LÊ SỸ)
Cùng với đó, tại Dự án 2 “Đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo”, các xã, phường, đơn vị chủ trì liên kết (hợp tác xã) tiếp tục thực hiện 92 dự án chuyển tiếp của năm 2024 với 1.607 hộ tham gia (ở các dự án chăn nuôi bò, nuôi gà, heo, trâu cái giống, dự án ngành nghề phi nông nghiệp đan giỏ mây, xe nước mía... và hỗ trợ lưới đánh bắt thủy sản, phao cứu sinh).
Sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, xã, phường, đơn vị chủ trì liên kết đang triển khai thực hiện 85 dự án phát triển cộng đồng cho hơn 1.500 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ khuyết tật không có sinh kế ổn định. Hiện có 5 dự án liên kết theo chuỗi giá trị chăn nuôi bò thịt vỗ béo cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đang được thẩm định.
Đây là thông tin từ kết quả triển khai thực hiện chung 3 chương trình mục tiêu quốc gia (Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới) trên địa bàn tỉnh Gia Lai năm 2025.
Trong Dự án 3 “Hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện dinh dưỡng”, với Tiểu dự án 1 “Hỗ trợ phát triển sản xuất”, các xã, phường tiếp tục triển khai các dự án chuyển tiếp từ năm 2024, có 76 dự án phát triển sản xuất cộng đồng hỗ trợ cho 265 hộ nghèo, 216 hộ cận nghèo, 45 hộ thoát nghèo tham gia ở các dự án chăn nuôi bò, nuôi gà, heo, trâu cái giống, trồng dâu nuôi tằm. Trong năm 2025, các dự án phát triển sản xuất cộng đồng đang được triển khai cho hơn 50 dự án chăn nuôi bò cái sinh sản cho hơn 1.020 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người khuyết tật không có sinh kế ổn định.
Còn Tiểu dự án 2 “Cải thiện dinh dưỡng” của Dự án 3 cũng đã tư vấn dinh dưỡng cho 7.160 bà mẹ mang thai và nuôi con đến 2 tuổi; lập danh sách 1.640 trẻ trong diện tư vấn; tư vấn vi chất dinh dưỡng cho 12.268 trẻ từ 5-16 tuổi. Chương trình bổ sung vi chất cho 134.892 trẻ từ 6-59 tháng tuổi, 2.929 trẻ từ 5 đến dưới 15 tuổi bị suy dinh dưỡng, thấp còi.
Ở Dự án 4 “Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững”, có 8 dự án đã triển khai, với 2 dự án hoàn thành, 3 dự án đang triển khai, 1 dự án đang chờ kết quả đấu thầu, 1 dự án chưa phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật, 1 dự án dừng do sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp, đề nghị hoàn trả kinh phí (vốn chuyển nguồn).
Trong Tiểu dự án 1, Dự án 4 “Hỗ trợ phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn”, Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng nội dung nhiệm vụ, đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững năm 2025 cho các xã, phường phía tây Gia Lai; xây dựng dự thảo và báo cáo tổng kết đánh giá tác động của pháp luật về chính sách đối với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định Chính sách đặc thù về hỗ trợ đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Tổ chức đào tạo nghề cho 707 người, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp, dân tộc thiểu số và lao động nông thôn khác.
Tiểu dự án 2 của Dự án 4 “Hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” đã hỗ trợ kinh phí gần 3 tỷ đồng cho 6 xã: Krông Chro, Ya Ma, Chư Krey, Sró, Chơ Long thuộc huyện nghèo Kông Chro (trước đây) và 4 xã: An Hòa, An Lão, An Vinh, An Toàn thuộc huyện nghèo An Lão (trước đây) để thực hiện hỗ trợ đưa người lao động trên địa bàn xã nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Chính sách ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; hỗ trợ người lao động tham gia các khóa đào tạo ngoại ngữ theo các hiệp định hợp tác giữa Việt Nam và nước tiếp nhận.
Dự án 5 “Hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo” đã hỗ trợ 358 nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn xã thuộc các huyện nghèo (trước đây).
Với Tiểu dự án 3 của Dự án 4 “Hỗ trợ việc làm bền vững”, Sở Nội vụ đã phối hợp các sở, ngành, địa phương triển khai một số giải pháp tăng cường kết nối cung cầu lao động, phát triển thị trường lao động bền vững, hiệu quả, chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ việc làm phối hợp triển khai thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm mới 6 tháng cuối năm 2025 và tăng cường công tác hỗ trợ tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Qua đó, các cơ quan đã tổ chức 40 phiên giao dịch việc làm, thu hút hơn 2.200 người tham gia, giúp cung ứng 653 lao động cho các doanh nghiệp.
Dự án 5 “Hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo” đã hỗ trợ 358 nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn xã thuộc các huyện nghèo (trước đây). Dự án đang tiếp tục triển khai giải ngân vốn phân bổ cho các xã của huyện Kong Chro (huyện nghèo cũ trên địa bàn phía tây) theo Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng thúc đẩy Dự án 6 “Truyền thông và giảm nghèo về thông tin” và Dự án 7 “Nâng cao năng lực, giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình”.

Bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai tặng thẻ bảo hiểm y tế cho người dân có hoàn cảnh khó khăn, tháng 11/2025. (Ảnh: BTC)
Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đánh giá, nhìn tổng thể, các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đã làm thay đổi diện mạo nông thôn Gia Lai, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; hạ tầng ngày càng hoàn thiện; sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp; môi trường và đời sống văn hóa được cải thiện. Các chương trình cũng phát huy vai trò chủ thể của người dân và tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên tập trung nguồn lực để hoàn thành, nhất là các tiêu chí về nông thôn mới.
Cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục được cải thiện rõ rệt: kênh mương, đường giao thông nông thôn được bê-tông, nhựa hóa; trường học, trạm y tế được nâng cấp, một số công trình mới được xây dựng khang trang, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú. Hoạt động chăm sóc sức khỏe, đời sống văn hóa được quan tâm, diện mạo nông thôn đổi mới, môi trường được cải thiện. Văn hóa truyền thống được bảo tồn, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố; đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng; công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết các chính sách dân tộc được thực hiện thường xuyên. Đời sống vật chất, tinh thần và trình độ dân trí của đồng bào được nâng lên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức chính trị-xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, huy động thêm nguồn lực ngoài ngân sách hỗ trợ các đối tượng thuộc chương trình mục tiêu quốc gia. Các phong trào thi đua, hoạt động hỗ trợ của lực lượng vũ trang và doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ thúc đẩy phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới nói riêng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh nói chung.
Tuy nhiên, cơ quan này cũng nêu lên những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ.
Công tác triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia tại địa bàn có những khó khăn, vướng mắc chung. Cụ thể, mỗi chương trình có rất nhiều dự án, tiểu dự án, nội dung thành phần nên việc triển khai thực hiện có sự lúng túng. Bên cạnh đó, nội dung, đối tượng của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững có sự trùng lắp nên cán bộ các cấp cần thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
Việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện của các Bộ, ngành Trung ương đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của chương trình trong các năm trước, dẫn đến nguồn vốn kéo dài sang năm 2025 lớn, tạo áp lực giải ngân đáng kể đối với các cơ quan, đơn vị và địa phương trong năm 2025.
Qua rà soát, nguồn vốn, dự toán ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh các năm trước chuyển sang năm 2025 của các dự án, tiểu dự án, nội dung thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia không còn đối tượng thực hiện, hết nhiệm vụ chi và các nguyên nhân khác dẫn đến không bảo đảm khả năng giải ngân và đề nghị hoàn trả là rất lớn. Tuy nhiên, số đơn vị đề nghị bổ sung vốn, kinh phí rất ít, phần nào gây ảnh hưởng đến kết quả giải ngân chung.
Về giải ngân vốn đầu tư công, một số địa phương chưa thực sự chủ động thực hiện công tác rà soát, chuẩn bị thủ tục đầu tư ngay từ khâu lập kế hoạch, nên sau khi đã giao kế hoạch vốn còn mất nhiều thời gian hoàn thiện thủ tục đầu tư, phê duyệt dự án do đó đến nay chưa có khối lượng thanh toán kế hoạch vốn đã giao. Ngoài ra, do đặc thù của vốn đầu tư phát triển thường giải ngân vào cuối năm nên đến thời điểm báo cáo tỷ lệ giải ngân chưa đạt theo yêu cầu.
Việc giải ngân vốn sự nghiệp còn thấp chủ yếu do các vướng mắc về đối tượng hỗ trợ, và cơ chế quy định của các chương trình ràng buộc nhiều tiêu chí, khó thực hiện. Một số nội dung hỗ trợ của 2 chương trình mục tiêu quốc gia (gồm: phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; giảm nghèo bền vững) không còn đối tượng hỗ trợ hoặc đối tượng theo dự tính ban đầu đã đủ điều kiện ra khỏi đối tượng hỗ trợ của chương trình.
Việc phân định lại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn chưa thống nhất, vẫn áp dụng quy định trước sắp xếp tổ chức bộ máy nên khi xây dựng dự án trên địa bàn xã mới, các đối tượng thụ hưởng khác nhau dẫn đến sự so sánh giữa các hộ sinh sống trên cùng địa bàn của xã mới.
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện, lựa chọn các phương án, dự án phát triển sản xuất ở cấp huyện (trước đây), cấp xã còn triển khai chậm, kéo dài đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, tiến độ giải ngân các nguồn vốn của chương trình. Một số dự án phát triển sản xuất cộng đồng, liên kết theo chuỗi giá trị (sử dụng kinh phí sự nghiệp) có thời gian thực hiện từ 3-8 tháng, việc giải ngân kinh phí phải theo tiến độ thực hiện dự án trong khi một số dự án mới được phê duyệt nên thời điểm giải ngân rơi vào cuối năm, ảnh hưởng đến tỷ lệ giải ngân kinh phí sự nghiệp của các chương trình.
Sau khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp và sắp xếp các xã, cán bộ tham mưu triển khai thực hiện chương trình tại cấp xã có nhiều thay đổi do nghỉ chế độ, điều chuyển công tác. Cán bộ phụ trách mới tại các xã chưa nắm được đầy đủ thông tin về nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia do cấp huyện, các xã cũ chuyển sang. Do đó, việc nắm bắt thông tin, phối hợp báo cáo tình hình thực hiện và giải ngân gặp nhiều khó khăn, chưa kịp thời và mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ lập kế hoạch, triển khai thực hiện nguồn vốn. Một số đơn vị cấp dưới kết thúc hoạt động sau khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp (Hội liên hiệp phụ nữ huyện, …) nên các cơ quan chủ trì các tiểu dự án thành phần không còn đối tượng để kiểm tra, giám sát, nên phải đề nghị hoàn trả kinh phí sự nghiệp đã giao thuộc nội dung kiểm tra, giám sát của các chương trình mục tiêu quốc gia.
Ngoài ra, bão số 13 (Kalmaegi) đổ bộ vào Gia Lai vào đầu tháng 11/2025 và đợt mưa lũ lớn từ ngày 18-20/11/2025 đã gây thiệt hại nặng nề trên địa bàn tỉnh. Các đơn vị, địa phương phải tập trung nhân lực, vật lực cho công tác khắc phục hậu quả. Do đó, trong thời gian này, một số hoạt động tập huấn, đào tạo, kiểm tra, giám sát thuộc Chương trình phải tạm dừng triển khai, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân chung.
Riêng với khó khăn, vướng mắc thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai cho biết, các hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối giai đoạn 2021-2025 phần lớn là nhóm đối tượng bảo trợ xã hội, hộ có người ốm đau bệnh nặng, hộ không có lao động nên việc tạo ra thu nhập để ổn định cuộc sống vươn lên thoát nghèo là hết sức khó khăn. Tình trạng tái nghèo, phát sinh nghèo do gặp các rủi ro, thiên tai, bệnh tật vẫn còn phát sinh, nhất là tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai.
Một số dự án phát triển sản xuất cộng đồng, liên kết theo chuỗi giá trị tại Dự án 2 và Tiểu dự án 1 Dự án 3 thuộc chương trình có thời gian thực hiện nhiều tháng. Việc giải ngân kinh phí phải căn cứ theo tiến độ thực hiện dự án nên thời điểm giải ngân rơi vào cuối năm, ảnh hưởng đến tỷ lệ giải ngân kinh phí sự nghiệp của chương trình.
Tình trạng thiếu nhân lực chuyên môn thực hiện công tác giảm nghèo sau điều chuyển nhiệm vụ của ngành nông nghiệp và môi trường, việc bố trí cán bộ ở một số xã chưa đúng với nhiệm vụ được phân công. Bên cạnh đó, khối lượng công việc hiện nay sau sắp xếp và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tương đối lớn, cán bộ mới chưa nắm bắt kịp công việc đang triển khai, dẫn đến một số xã, phường lúng túng, chậm thực hiện.
Năm 2025 là năm cuối giai đoạn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025. Thời gian đến cuối năm không còn nhiều, vì vậy, để triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia các cơ quan, đơn vị của tỉnh Gia Lai cần tập trung thực hiện năm nhiệm vụ chung.
Riêng với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Ủy ban nhân dân tỉnh đẩy mạnh phân cấp, trao quyền cho địa phương, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng trong lập kế hoạch, thực hiện và giám sát. Áp dụng cơ chế đặt hàng để xây dựng, nhân rộng mô hình giảm nghèo nông nghiệp, phi nông nghiệp, khởi nghiệp và đa dạng hóa sinh kế; thực hiện hỗ trợ theo nhóm tự nguyện có đối ứng và có cơ chế luân chuyển một phần kinh phí Nhà nước.
Đồng thời, tăng cường đào tạo nghề cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; rà soát tránh trùng lắp với các chương trình khác. Đôn đốc các cấp có thẩm quyền sớm thẩm định, phê duyệt các dự án hỗ trợ sản xuất để tạo sinh kế; ưu tiên hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho các đối tượng thuộc chương trình.
XUÂN ĐỨC












