Theo dấu chân Phật hoàng: Từ danh hiệu Di sản đến trách nhiệm bảo tồn
Ngày 12/7/2025, tại Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản Thế giới, 'Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn-Kiếp Bạc' chính thức trở thành Di sản văn hóa thế giới thứ 9 của Việt Nam, đồng thời là di sản liên tỉnh thứ hai sau vịnh Hạ Long – Cát Bà.
Sáng sớm trên đường Tùng Yên Tử, sương mỏng như một lớp ký ức phủ lên những bậc đá. Tiếng chuông từ Hoa Yên pha mùi trầm nhẹ, bước chân người hành hương chậm lại. Không ai nhắc đến bằng khen hay bảng xếp hạng.
Núi vẫn là núi, đá vẫn là đá. Nhưng phía sau sự bình thản ấy là mười ba năm bền bỉ của những con người âm thầm nối chữ, nối bản đồ, nối niềm tin để đưa di sản đi hết một hành trình dài.
Hành trình bền bỉ
Ý tưởng lập hồ sơ di sản cho Yên Tử và xa hơn là kết nối các cụm di tích lân cận thành một chỉnh thể được khởi động từ năm 2012. Hai năm sau, tên Yên Tử xuất hiện trong danh mục dự kiến của Trung tâm Di sản thế giới. Khi ấy, hình dung về không gian di sản còn rất rộng, nhiều tiêu chí được nêu ra, nhiều điểm di tích được gom lại.

Áp lực bảo tồn Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn-Kiếp Bạc vẫn hiện hữu là giới hạn tải khách
Các đoàn chuyên gia IUCN, ICOMOS đã lặng lẽ sang Việt Nam. Họ lên núi, lội suối, đi chùa, trò chuyện với người thủ đền, cán bộ quản lý, người dân... Chuyến khảo sát kéo dài nhiều tuần, qua khoảng hai chục điểm di tích, để rồi trở về với một bản báo cáo chi tiết.
“Những nhận xét thẳng thắn của họ khiến đội ngũ lập hồ sơ trong nước lặng đi. Điều quan trọng nhất là phải cắt bỏ để có một câu chuyện xuyên suốt, mang tính kết nối và sức thuyết phục,” bà Nguyễn Thị Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, nhớ lại.
Từ đó là hàng chục hội thảo, tọa đàm học thuật nối tiếp, hàng trăm công văn qua lại giữa các bộ, ngành, có cả những kiến nghị khẩn gửi Thủ tướng. Trục kể được chốt quanh tinh thần Trúc Lâm, lấy Yên Tử làm trung tâm, chọn tỉnh Quảng Ninh làm “chủ công”, đồng thời xác lập vai trò nối dài của Vĩnh Nghiêm và Côn Sơn-Kiếp Bạc.
Từ hơn 20 điểm ban đầu, hồ sơ được tinh gọn còn 12 điểm “mấu chốt” những nơi mà cảnh quan, lịch sử, tôn giáo và cộng đồng gặp nhau để tạo nên mạch kể không đứt đoạn.
Đầu năm 2024, bộ hồ sơ dày dặn được gửi đi, gồm phần chính văn gần nghìn trang và hệ thống phụ lục chi li: ảnh, bản vẽ, sơ đồ, khoanh vùng, kế hoạch quản lý. Không chỉ trả lời “vì sao xứng đáng”, hồ sơ còn chỉ ra “sẽ làm thế nào để giữ”. Hy vọng được thắp lên. Rồi bất ngờ, ICOMOS phát hành báo cáo đánh giá phục vụ kỳ họp 47, khuyến nghị “defer” hoãn xem xét, không ghi danh tại kỳ này. Mọi thứ như chững lại.
Những ngày Paris vào giữa tháng Bảy, phái đoàn Việt Nam gần như sống giữa các hành lang hẹp của trụ sở UNESCO. Các nhóm kỹ thuật liên tục họp để siết mạch kể quanh Trúc Lâm, lược bỏ những thành phần chưa đủ liên kết, làm rõ các điểm còn băn khoăn về quản trị và tính xác thực.
“Bước ngoặt đến từ ngoại giao di sản,” bà Nguyễn Thị Hạnh kể. Các Ủy viên Ủy ban do Ấn Độ đứng tên cùng nhiều đồng tác giả đã đề xuất bản sửa dự thảo quyết định, biến dòng chữ mở đầu từ “Defers” thành “Inscribes”. Hồ sơ khi ấy tập trung rõ hơn vào cấu trúc nối tiếp cốt lõi, nhấn mạnh giá trị nổi bật toàn cầu của tinh thần Trúc Lâm.
Nhớ lại các cuộc gặp “cân não” với đại diện những quốc gia thành viên, ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh vẫn còn xúc động.
Có buổi làm việc với đại diện một nước Trung Đông, chỉ qua vài câu chuyện, vị đại biểu bật khóc vì ngưỡng mộ hành trình của Việt Nam, một dân tộc yêu hòa bình, bền bỉ giữ gìn bản sắc giữa biến động.

Mây ngũ sắc vắt ngang một dải trên đỉnh Yên Tử
Từ hành lang UNESCO ở Paris, câu chuyện trở về những bậc đá rêu ở Yên Tử, những trang mộc bản ở Vĩnh Nghiêm, những rừng thông Côn Sơn, tiếng nước Lục Đầu ở Kiếp Bạc. Mười ba năm, nhiều lần tưởng như ngõ cụt, rồi vẫn đi tiếp bằng kiên trì và sự tỉnh táo.
Giữ dòng chảy bảo tồn
Danh hiệu ghi rồi, câu hỏi mới bắt đầu mở ra, bảo tồn và phát huy một chỉnh thể liên vùng như thế nào trong sức ép của thời hiện đại? Bảo tồn không chỉ là dựng rào và treo biển. Bảo tồn là đối xử đúng mực với thời gian.
“Ở Yên Tử, những bậc đá cũ cần được tôn trọng như thước phim về bước chân các thế hệ, việc tu bổ đường lên chùa cần ưu tiên vật liệu, cấu trúc và cảnh quan truyền thống, hạn chế san gọt khiến núi mất “nhịp thở”.
Rừng là lá phổi của di sản, hệ thống giám sát cháy rừng, xói mòn, tải khách theo mùa phải trở thành quy trình thường trực, gắn với sinh kế của cộng đồng bản địa”, cụ Phạm Ngọc Thực, 88 tuổi, người có nhiều năm nghiên cứu về văn hóa Quảng Ninh nói.
Không chỉ ở Yên Tử, mà với Vĩnh Nghiêm, Bổ Đà hay Côn Sơn-Kiếp Bạc và những điểm trong quần thể được công nhận di sản cũng cần được lập kế hoạch bảo tồn một cách thận trọng, bài bản. Trong bộ hồ sơ trình lên UNESCO, có gần 1.000 trang thì trong đó chiếm hơn 30% là phương hướng bảo tồn và phát huy giá trị sau khi được công nhận.
Với hệ thống hơn 3.000 mộc bản “thư khố gỗ” sẽ có một chương trình bảo quản và số hóa bài bản. Bởi mỗi vết dao, mỗi cạnh ván mòn là một lớp tri thức. Số hóa không phải để thay thế trải nghiệm, mà để gìn giữ và lan tỏa.
Các hoạt động tái hiện lịch sử luôn bám tư liệu, tăng chiều sâu học thuật. Hệ thống di chỉ trong hệ không gian liên kết từ Côn Sơn-Kiếp Bạc tới động Kính Chủ, bãi cọc Yên Giang có một ngôn ngữ thuyết minh chung, nhất quán.

Chùa Côn Sơn tĩnh lặng giữa rừng thông xanh mướt
“Tăng trưởng du lịch là có thật, song lợi ích văn hóa mới là thứ ở lại lâu dài. Một con đường lát phẳng có thể khiến bức ảnh đẹp hơn, nhưng nếu xóa dấu bậc đá cổ, ta đã xóa một phần ký ức. Một khu dịch vụ nhộn nhịp có thể rộn ràng một mùa, nhưng nếu át tiếng chuông chùa, ta đã lấn vào mạch máu của di sản. Biết dừng đúng chỗ cũng là một biểu hiện của văn minh bảo tồn”. cụ Phạm Ngọc Thực
Đặc biệt, đây là di sản liên tỉnh, câu chuyện không dừng ở một địa phương. Ba bên Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng cần một cơ chế phối hợp mềm dẻo mà ràng buộc, thống nhất giới hạn tải khách, lộ trình tham quan, bảng dẫn, điểm dừng, quy chuẩn vật liệu tu bổ.
Chia sẻ ngân hàng dữ liệu mở về thư tịch, bia ký, khảo cổ. Đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên biết “kể chuyện” chứ không chỉ “đếm dữ kiện”. Khi mỗi mắt xích hiểu vị trí của mình trong bản giao hưởng chung, di sản không bị “xé lẻ”, mà cộng hưởng.
UNESCO không phải vạch đích. Đó là dấu phẩy mở ra phần tiếp theo phần việc bền bỉ và vô danh. Tiếp tục nghiên cứu, số hóa, đào tạo, điều phối, giữ rừng, giữ suối, giữ nếp hành hương. Tên gọi hôm nay có thể đổi, nhưng đường xưa vẫn đó. Vấn đề chỉ là ta có bước cho đúng nhịp hay không. Và đó chính là trách nhiệm đương đại mà danh hiệu Di sản thế giới đã trao vào tay mỗi chúng ta.