Thị trường chứng khoán cần thêm nhiều cổ đông chủ động
Trong bối cảnh quyền và lợi ích của cổ đông nhỏ chưa thực sự được coi trọng, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam rất cần những nhà đầu tư chủ động, am hiểu luật pháp và tài chính, như một yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết nâng cao chất lượng quản trị và tính minh bạch.
Đường xa vẫn không chùn bước
Cổ đông chủ động, là số ít cá nhân coi đầu tư chứng khoán là nghề nghiệp. Họ am hiểu luật pháp, tình hình doanh nghiệp và không ngại chất vấn lãnh đạo doanh nghiệp những vấn đề chuyên môn.

Nhà đầu tư Đặng Đình Hiệp. Ảnh: H.T
Với nhiều năm kinh nghiệm công tác trong ngành ngân hàng, ông Đặng Đình Hiệp (76 tuổi) chọn đầu tư dài hạn vào cổ phiếu ngân hàng, dựa trên ba nền tảng, gồm: sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ và NHNN; tiềm lực tài chính vững vàng; chính sách chia cổ tức đều đặn bằng tiền mặt và cổ phiếu.
Tin tưởng là vậy, nhưng nhà đầu tư này vẫn duy trì thái độ tỉnh táo và không ngại chất vấn lãnh đạo các ngân hàng về dòng tiền, thời hạn chia cổ tức, chất lượng các khoản cấp tín dụng tại mỗi cuộc họp cổ đông.
Mới đây, tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên 2025 của SHB, ông Hiệp yêu cầu lãnh đạo ngân hàng chia sẻ thẳng thắn về tiến độ, nguồn lực và vướng mắc khi triển khai xây dựng trụ sở mới ở phố Lý Thường Kiệt, sau nhiều năm hứa hẹn “dự kiến sẽ khởi công trong năm nay”.
Về cổ tức, ông nhiều lần yêu cầu lãnh đạo SHB chi trả cổ tức trong vòng 6 tháng kể từ ngày kết thúc họp ĐHĐCĐ thường niên - theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020, thay vì để cổ đông đợi 9-12 tháng hoặc hơn. Đồng thời, cân đối giữa tỷ lệ cổ tức bằng tiền mặt và cổ phiếu nhằm bảo đảm hiệu quả với mỗi đồng vốn đầu tư của cổ đông, trong bối cảnh thị giá cổ phiếu ở mức thấp.
Tới cuộc họp của ABBank, ông Hiệp đề nghị lãnh đạo ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận cả năm cao hơn so với kế hoạch, để cổ đông sớm được chia cổ tức cho “ra tấm, ra món” sau nhiều năm hi sinh quyền lợi vì sự phát triển của ngân hàng.
Ông cũng không ngần ngại góp ý với quyết định nộp, rồi rút đơn từ nhiệm thành viên HĐQT ABBank của ông Vũ Văn Tiền có thể khiến cổ đông hoang mang, e ngại về sự thiếu ổn định của bộ máy lãnh đạo. Đồng thời, đề nghị ban lãnh đạo ngân hàng dành thời gian, tổ chức đối thoại định kỳ hàng tháng/quý với nhà đầu tư để họ thêm tin tưởng vào định hướng phát triển của ngân hàng.
Những góp ý sát thực của ông Hiệp và một số cổ đông là một yếu tố, khiến lãnh đạo ABBank chỉ đạo các phòng, ban cấp dưới nghiên cứu, thành lập kênh đối thoại, giải đáp câu hỏi trực tiếp từ nhà đầu tư/cổ đông ngay tại cuộc họp.
Tương tự ông Hiệp, ông Tô Hồng Sơn (Hà Nội) thể hiện sự chủ động qua việc chủ động gửi kiến nghị tới doanh nghiệp và cơ quan quản lý, khi thấy các quyết định của ban lãnh đạo gây ảnh hưởng không tốt với cổ đông nhỏ.
Năm 2013, nhận tin các cổ đông tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường của Viglacera Hạ Long đã thông qua phương án phát hành 7 triệu cổ phiếu cho ba cổ đông lớn là Tổng công ty Viglacera, SSI, SSIAM, ông Sơn và một số cổ đông đã nhanh chóng gửi kiến nghị phản đối, với luận điểm “mức giá bán 10.000 đồng/cổ phiếu cho ba cổ đông lớn thấp hơn nhiều so với thị giá tại thời điểm đó là 17.000 đồng/cổ phiếu, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông còn lại”.
Hành động của ông Sơn và một số cổ đông góp phần khiến ban lãnh đạo Viglacera Hạ Long phải hủy phương án phát hành riêng lẻ, thay bằng phương án phát hành cho cổ đông hiện hữu, để đảm bảo công bằng cho tất cả cổ đông.
Khi cổ đông nhỏ chưa có khả năng tự bảo vệ
Không thể phủ nhận, sự xuất hiện của các nhà đầu tư chủ động như ông Hiệp và ông Hồng đã góp phần nâng cao tính minh bạch, chất lượng quản trị, mức độ tôn trọng quyền lợi cổ đông tại một số doanh nghiệp niêm yết. Nhưng thực tế là số lượng nhà đầu tư có chuyên môn, sẵn sàng lên tiếng bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong số gần 9,88 triệu nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam tính tới cuối tháng 4-2025.

Cổ đông bỏ phiếu tại cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên 2025 của một ngân hàng. Ảnh: H.T
Trong hầu hết trường hợp, cổ đông nhỏ lẻ thường thường chịu tác động tiêu cực từ hành vi, quyết định của các thành viên khác trên thị trường. Chẳng hạn, tại Công ty cổ phần ANI, từng diễn ra tình huống nhóm cổ đông lớn tìm cách thâu tóm, nhằm đạt mục tiêu sở hữu hơn 90% cổ phần doanh nghiệp.
Điều này khiến ANI đối mặt mất tư cách là công ty đại chúng và bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét hủy tư cách công ty đại chúng, hủy niêm yết sau một năm, nếu không thay đổi. Còn hơn 500 cổ đông nhỏ lâm vào tình huống cổ phiếu mất thanh khoản và buộc phải bán ra ở mức giá thấp.
Trong bối cảnh trên, ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Khối nghiên cứu đầu tư của FIDT, cho rằng cần cơ chế giám sát kỹ lưỡng để lãnh đạo doanh nghiệp, cổ đông lớn không chơi “game” với cổ đông nhỏ.
Một số “game” được vị này cảnh báo, gồm: chuyển dần nguồn lực, khách hàng, lợi nhuận… của doanh nghiệp mà họ hiện đang ít quyền sở hữu sang một doanh nghiệp mới thành lập; “đè giá” cổ phiếu nhằm gom lại qua các thủ thuật như công bố báo cáo kết quả kinh doanh xấu, phát hành cổ phiếu với giá rẻ cho cổ đông chiến lược/hiện hữu; cố tình báo cáo tài chính sai thời gian theo quy định, vi phạm các quy định niêm yết, để cổ phiếu bị hủy niêm yết.
Với những nhà đầu tư cá nhân, ông Huy khiến nghị nên nhận diện và thẳng thắn nói “không” với các doanh nghiệp có biểu hiện nêu trên để tự bảo vệ bản thân và phát triển thị trường.
Còn Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group, gợi ý có thể áp dụng chuẩn OECD với các doanh nghiệp vốn hóa lớn hoặc có trên 1.000 cổ đông nhỏ. Chẳng hạn, thành lập “Hội đồng đại diện cổ đông thiểu số” tương tự cách Singapore triển khai để giám HĐQT.
Với cuộc họp ĐHĐCĐ, có thể minh bạch hóa về việc niêm yết công khai danh sách cổ đông tham dự và kết quả biểu quyết chi tiết. Hay việc thông qua các quyết định quan trọng (phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng tài sản hay thay đổi nhân sự cấp cao) phải được sự đồng thuận của ít nhất 25% hoặc 50% cổ đông nhỏ tại cuộc họp, thay vì chỉ dựa vào tỷ lệ đa số theo quy định của pháp luật hiện hành.
Để thị trường có nhiều cổ đông chủ động trong dài hạn, ông K.V.Cường cho rằng các cơ quan quản lý như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, NHNN có thể xem xét, đưa các kiến thức tài chính, đầu tư vào chương trình giáo dục phổ thông, tương tự như cách Thái Lan và một số quốc gia phát triển đang áp dụng, với việc làm rõ những bài học cơ bản như: “tiền, cổ phiếu, cổ phần là gì?”, “giải pháp quản lý tài chính cá nhân”, trước khi hướng tới các mục tiêu dài hạn hơn.