Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 16-23/11: Giá cà phê lập kỷ lục 13,5 năm, dầu tăng mạnh nhất 2 tuần

Kết thúc tuần giao dịch từ 16-23/11, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá vàng lần đầu tăng vượt mốc 2.700 USD/ounce, giá cà phê lập đỉnh mới 13,5 năm ở mức 6.660 USD/tấn, giá dầu cũng tăng mạnh nhất 2 tuần

Năng lượng: Giá dầu tăng 6%, khí LNG tăng 5%, than nhiệt châu Âu cũng đi lên

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng hơn 1% vào thứ Sáu (22/11), ổn định ở mức cao nhất trong 2 tuần, khi cuộc xung đột Nga - Ukraine gia tăng. Cụ thể, dầu Brent tăng 94 Uscent (+1,3%) lên 75,17 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 1,14 USD (+1,6%) lên 71,24 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu tăng khoảng 6% - mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 7/11/2024.

Trung Quốc - nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, đã công bố các biện pháp chính sách thúc đẩy thương mại, bao gồm hỗ trợ nhập khẩu sản phẩm năng lượng. Theo các nhà phân tích, thương nhân và dữ liệu theo dõi tàu, lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc dự kiến sẽ phục hồi trong tháng 11/2024.

Theo dữ liệu của Chính phủ Ấn Độ, lượng dầu nhập khẩu ở quốc gia nhập khẩu dầu lớn thứ ba thế giới này cũng tăng do lượng tiêu thụ trong nước tăng.

Gây áp lực lên giá vào thứ Sáu, hoạt động kinh doanh của khu vực đồng euro giảm. Ngược lại, S&P Global cho biết, chỉ số đầu ra PMI tổng hợp của Mỹ, theo dõi các ngành sản xuất và dịch vụ, đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 4/2022, trong đó ngành dịch vụ đóng góp phần lớn vào mức tăng này.

Tuy nhiên, với các thước đo hoạt động kinh doanh đó di chuyển theo hướng trái ngược ở Mỹ và châu Âu, USD đã tăng vọt lên mức cao nhất 2 năm so với rổ các tiền tệ khác. “Đồng bạc xanh” mạnh hơn khiến dầu đắt hơn ở các quốc gia khác, điều này có thể làm giảm nhu cầu. Tại Đức, nền kinh tế lớn nhất hâu Âu, nền kinh tế tăng trưởng ít hơn ước tính trước đó trong quý III/2024.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên tương lai của Mỹ tăng lên mức cao nhất trong 1 năm vào thứ Năm (21/11) do dự báo thời tiết lạnh hơn và lưu lượng khí đốt tăng đến các nhà máy xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG). Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ cho biết, các công ty tiện ích đã rút 3 tỷ feet khối (bcf) khí đốt từ kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 15/11.

Cụ thể, giá LNG tương lai giao tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 14,6 cent (+4,6%) lên 3,339 USD/mmBtu - mức đóng cửa cao nhất kể từ tháng 11/2023.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 100,8 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 11, giảm so với mức 101,3 bcfd trong tháng 10. Con số này so với mức kỷ lục 105,3 bcfd vào tháng 12/2023.

Lượng khí đốt vào 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn đang hoạt động của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 13,5 bcfd cho đến nay trong tháng 11, tăng từ mức 13,1 bcfd vào tháng 10. Con số này so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd vào tháng 12/2023.

Trên thị trường than, trong tuần qua, chỉ số than nhiệt châu Âu dao động trong khoảng 124-127 USD/tấn, được hỗ trợ bởi giá khí đốt và điện tăng cao, một yếu tố khác là sự gia tăng tiêu thụ than của Đức.

Giá than nhiệt lượng CV 6.000của Nam Phiở mức 112 USD/tấn nhờ xu hướng tăng trên thị trường châu Âu.

Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã giảm 1 USD/tấn, xuống mức 117,66 USD/tấn. Giá chào hàng chịu áp lực do nhiệt độ cao hơn theo mùa, lượng hàng tồn kho cao cũng như các công ty khai thác hạ giá chào hàng 0,7-2,8 USD/tấn, sau khi doanh số bán hàng giảm, do nhu cầu yếu hơn từ các doanh nghiệp công nghiệp và thương nhân.

Ngoài ra, chính quyền tỉnh Sơn Tây (khu vực sản xuất than lớn thứ hai) đã đưa ra chỉ thị tăng sản lượng trong quý IV/2024 để đạt mục tiêu 1,3 tỷ tấn vào cuối năm. Do đó, mặc dù lượng hàng tồn kho cao, các công ty khai thác sẽ hoạt động ở mức 110% công suất đã thỏa thuận vào cuối năm. Hơn nữa, hồi đầu năm, sản lượng đã bị cắt giảm theo yêu cầu của chính quyền do lo ngại về an toàn.

Than nhiệt lượng 5.900 GAR của Indonesia tăng lên 93,8 USD/tấn do nhập khẩu liên tục từ Trung Quốc, nơi mức tiêu thụ đã tăng tại các nhà máy nhiệt điện ven biển vì vật liệu của Indonesia vẫn rẻ hơn than địa phương. Nguồn cung cũng bị hạn chế bởi thời tiết mưa.

Tổng thống Indonesia Prabowo Subianto cho biết, nước này sẽ đóng cửa tất cả các nhà máy điện chạy bằng than trong vòng 15 năm vào năm 2040, nhanh hơn 10 năm so với thời hạn đã nêu trước đó. Sáng kiến này được công bố như một phần trong bài phát biểu của ông về nhu cầu khử cacbon bên lề cuộc họp G20 vào ngày 19/11/2024.

Chỉ số CV cao 6.000 của Úc giảm xuống dưới 140 USD/tấn do nhu cầu yếu hơn ở châu Á - Thái Bình Dương và sự cạnh tranh gia tăng từ Colombia. Khi CNY suy yếu, Trung Quốc đang mua nhiều than của Indonesia hơn, trong khi Ấn Độ đang có thái độ chờ đợi và quan sát vì lượng hàng tồn kho cao.

Chỉ số than luyện kim HCC của Úc giảm xuống dưới 204 USD/tấn do nhu cầu yếu cũng như các yếu tố cơ bản yếu, bao gồm tăng trưởng GDP thấp và phát hiện của những người tham gia thị trường rằng, các biện pháp hỗ trợ kinh tế mới của Trung Quốc sẽ không nhằm mục đích kích thích nhu cầu trong nước. Hơn nữa, suy đoán về một đợt giảm giá than cốc mới ở Trung Quốc vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, vẫn còn một phần lạc quan khi dự đoán sẽ có đợt bổ sung hàng trước mùa Đông.

Kim loại: Giá vàng tăng mạnh nhất 20 tháng; đồng, quặng sắt và thép đồng loạt giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng ngày 22/11 đã vượt ngưỡng 2.700 USD/ounce lần đầu tiên sau hơn 2 tuần do nhu cầu trú ẩn an toàn, cho dù USD cũng tăng và thị trường giảm kỳ vọng vào việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng tới.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng vọt 1,5% lên 2.709,24 USD/ounce - cao nhất từ ngày 6/11. Giá vàng kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1,4% lên 2.712,2 USD/ounce. Vàng thỏi đã tăng hơn 5,7% trong tuần qua - là tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2023.

Cũng trong ngày 22/11, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 30,75 USD/ounce; bạch kim ổn định ở mức 961,53 USD/ounce và palladium tăng nhẹ 0,1% lên 1.037,57 USD/ounce. Cả 2 kim loại quý này đều tăng trong tuần.

Ở nhóm kim loại màu, trong phiên 22/11, giá đồng giảm do lo ngại về những diễn biến mới nhất trong cuộc chiến ở Ukraine, USD mạnh hơn và lo ngại về nhu cầu ở Trung Quốc.

Cụ thể, giá đồng kỳ hạn giao ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,9% xuống 9.008 USD/tấn. Hợp đồng tương lai đồng Comex của Mỹ giảm 1,2% xuống 4,10 USD/pound. Hợp đồng đồng giao tháng 12/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,1% lên 74.440 CNY (10.281,06 USD)/tấn.

Giá đồng LME đã giảm 11% từ mức đỉnh 4 tháng vào ngày 30/9/2024, do lo ngại về nhu cầu ở quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu Trung Quốc và USD mạnh sau chiến thắng của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.

Căng thẳng ở Ukraine đã làm thị trường tài chính bất ổn trong những ngày gần đây… Thị trường kim loại cũng thất vọng về phạm vi kích thích mà Trung Quốc đã tung ra để thúc đẩy nền kinh tế của nước này đang trì trệ.

Một cuộc thăm dò của Reuters đối với các nhà kinh tế cho thấy Mỹ có thể áp thuế gần 40% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào đầu năm 2025, có khả năng cắt giảm tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tới 1%.

Một yếu tố khác gây áp lực lên thị trường đồng là sự gia tăng của chỉ số USD sau dữ liệu yêu cầu bồi thường của Mỹ, khiến kim loại có giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.

Cũng trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,5% xuống 2.630,50 USD/tấn; nikel giảm 1,4% xuống 15.685 USD/tấn; chì giảm 1,1% xuống 1.998 USD/tấn; thiếc giảm 1,3% xuống 28.650 USD/tấn, trong khi kẽm tăng 0,1% lên 2.989 USD/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm vào thứ Sáu (22/11) trong bối cảnh các nhà giao dịch trên khắp các thị trường tài chính có tâm lý né tránh các tài sản rủi ro cao.

Cụ thể, quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc giảm 1,2% xuống 768,50 CNY (106,06 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn tăng 2,9%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,3% xuống 100,7 USD/tấn.

Tâm lý tránh rủi ro xuất hiện trên khắp các thị trường tài chính do xung đột gia tăng trong cuộc chiến Ukraine - Nga đã gây sức ép lên giá.

Giá thép trên sàn SHFE đồng loạt giảm. Thép cây giảm 1,4% xuống 3.279 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 1,2% xuống 3.452 CNY/tấn; thép dây giảm 1,1% xuống 3.578 CNY/tấn và thép không gỉ giảm 1,1% xuống 13.195 CNY/tấn.

Dữ liệu của WorldSteel cho thấy, sản lượng thép toàn cầu trong tháng 10/2024 tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước lên 151,2 triệu tấn. Trong đó, sản lượng thép thô từ Trung Quốc - nước sản xuất và tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, tăng 2,9% lên 81,9 triệu tấn.

Nông sản: Lúa mì và đậu tương tăng giá, đi ngược với ngô

Hợp đồng lúa mìhoạt động tích cực nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) giảm 0,66% trong phiên 22/11, xuống 5,64 USD/giạ, nhưng vẫn dao động gần mức cao nhất kể từ ngày 12/11.

Cụ thể, giá lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 3/2024 (WH25) tăng 4,05 cent lên 572,25 cent/giạ; lúa mì cứng đỏ mùa Đông KC tháng 3 (KWH25) tăng 3,25 cent/giạ và lúa mì xuân Minneapolis tháng 3 (MWEH25) tăng 2 cent/giạ.

Theo Reuters, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Ukraine Taras Vysotskiy cho biết, sản lượng lúa mì của Ukraine có thể tăng lên tới 25 triệu tấn vào năm 2025 so với mức dự kiến là 22 triệu tấn trong năm 2024 nhờ diện tích gieo trồng lớn hơn. Điều này có thể giúp giảm bớt một phần lo ngại về nguồn cung lúa mì toàn cầu, mặc dù tình hình xung đột vẫn là yếu tố gây bất ổn.

Giá đậu tương CBOT cũng tăng nhẹ. Cụ thể, giá đậu tương giao sau kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 4,28% lên 1.178 USD/bushel.

Giá đậu tương vẫn ở mức cao do nhu cầu tăng cao. Theo Hiệp hội Đậu tương Mỹ, nhu cầu tiêu thụ đậu tương thế giới niên vụ 2023-2024 dự kiến đạt 388,9 triệu tấn, tăng 2,5% so với niên vụ trước. Ngoài ra, nguồn cung đậu tương thế giới đang thắt chặt. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng đậu tương toàn cầu niên vụ 2023-2024 dự kiến đạt 367,2 triệu tấn, giảm 2,1% so với niên vụ trước.

Ngược lại, giá ngô CBOT ghi nhận xu hướng giảm nhẹ. Cụ thể, giá ngô giao sau kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 0,3% xuống 6,78 USD/bushel.

Giá ngô giảm là do nguồn cung đang dồi dào. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng ngô toàn cầu niên vụ 2023-2024 dự kiến đạt 1,196 tỷ bushel, cao hơn 1,175 tỷ bushel của niên vụ trước. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ ngô thế giới cũng đang chững lại do giá cả tăng cao. Theo Hiệp hội Ngô Mỹ, nhu cầu tiêu thụ ngô thế giới niên vụ 2023-2024 dự kiến đạt 1,24 tỷ bushel, giảm nhẹ so với 1,25 tỷ bushel của niên vụ trước.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê lập đỉnh mới 13,5 năm; cao su cũng tăng; dầu cọ giảm mạnh nhất 1,5 năm

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá cà phê Arabica tăng 6,64% lên 6.660 USD/tấn, thiết lập mức đỉnh mới trong 13,5 năm, cà phê Robusta cũng tăng 4,4% lên gần 5.000 USD/tấn. Đây là tuần tăng giá thứ ba liên tiếp của cả 2 mặt hàng, được thúc đẩy chủ yếu bởi lo ngại về nguồn cung tại Brazil và Việt Nam.

Tại Brazil, mặc dù lượng mưa tại bang Minas Gerais, vùng trồng cà phê lớn nhất nước này, đã cao hơn 27% so với mức trung bình lịch sử trong tuần trước, nhưng thị trường vẫn lo ngại về tình trạng thiếu hụt độ ẩm trong đất đối với vụ mùa 2025-2026. Theo Barchart, lượng mưa tại Brazil liên tục thấp hơn mức trung bình kể từ tháng 4/2024, ảnh hưởng đến giai đoạn ra hoa quan trọng và triển vọng vụ mùa cà phê Arabica.

Tại Việt Nam, thị trường cà phê đang đối mặt với nhiều thách thức về nguồn cung. Bên cạnh lo ngại về hiện tượng La Nina có thể xuất hiện vào cuối năm và ảnh hưởng đến quá trình thu hoạch, lượng cà phê sẵn có tại thời điểm bước vào vụ thu hoạch chính 2024 cũng ở mức thấp. Tình trạng nguồn cung thấp còn được phản ánh qua số liệu xuất khẩu của Tổng cục Hải quan, khi lượng cà phê xuất khẩu trong nửa đầu tháng 11/2024 chỉ đạt 20.933 tấn, giảm 45% so với cùng kỳ năm trước và giảm 3% so với 15 ngày đầu tháng 10/2024. Điều này trái ngược với quy luật thông thường khi khối lượng xuất khẩu tháng 11 thường tăng dần do nông dân bước vào giai đoạn thu hoạch chính vụ.

Giá dầu cọ Malaysia giảm vào thứ Sáu (22/11) và có tuần giảm mạnh nhất trong hơn 1,5 năm do lo ngại nhu cầu yếu đi và giá dầu đậu tương giảm. Cụ thể, hợp đồng dầu cọ giao tháng 2/2025 trên Sàn Malaysia giảm 132 ringgit (-2,77%) xuống còn .640 ringgit (1.039,19 USD)/tấn và giảm 8,81% trong tuần, đánh dấu tuần giảm thứ hai liên tiếp và là mức giảm hàng tuần lớn nhất từ tháng 4/2023.

Hợp đồng dầu đậu tương giao dịch nhiều nhất trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) giảm 1,52%, trong khi hợp đồng dầu cọ giảm 1,3%. Giá dầu đậu tương trên Sàn giao dịch Chicago giảm 0,71%.

Đóng cửa phiên 22/11, giá cao su RSS 3 giao tháng 3/2025 tại Sở Giao dịch Osaka (OSE) Nhật Bản quay đầu giảm nhẹ 0,6% (2 JPY/kg) so với phiên giao dịch trước, đứng ở mức 360,2 JPY/kg. Trên sàn SHFE (Trung Quốc), giá cao su tự nhiên hợp đồng giao tháng 1/2025 tiếp tục giảm 0,9% (155 CNY/tấn) xuống 17.325 CNY/tấn. Tại Thái Lan, giá cao su RSS 3 giao tháng 12/2024 tăng 1,9% lên 81,47 Baht/kg.

Mặc dù vậy, tính chung cả tuần, giá cao su tại Thái Lan giảm nhẹ 0,4%; trong khi Nhật Bản tăng 2,6% và Trung Quốc tăng 0,2%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/thi-truong-hang-hoa-the-gioi-tuan-tu-16-2311-gia-ca-phe-lap-ky-luc-135-nam-dau-tang-manh-nhat-2-tuan-post358704.html