Thiêng liêng biết mấy những lời của Bác
Hà Nội tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt nhân 50 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ
(HNM) - Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân bản Di chúc lịch sử. Di chúc được Bác Hồ viết lần đầu ngày 15-5-1965, nhân dịp Người sang tuổi 75.
Như lời kể của đồng chí Vũ Kỳ: “Đúng 9h, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã được suy ngẫm từ lâu... Chọn đúng vào một ngày tháng 5, nhân dịp ngày sinh của mình; chọn đúng vào lúc 9h, giờ đẹp nhất của một ngày; chọn đúng vào lúc tốt nhất của sức khỏe trong những năm gần đây... để viết về ngày ra đi của mình, sao mà Bác thanh thản, ung dung đến thế!”. Những năm sau, cứ vào dịp tháng 5 trước ngày sinh, Người lại đem ra xem lại. Mỗi lần lại “thấy cần phải viết thêm mấy điểm”. Lần sửa đầu tiên, là tháng 5-1966. Lần sửa cuối cùng là ngày 10-5-1969, trước khi Người qua đời gần 4 tháng.
Năm nay, vừa tròn 50 năm toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện Di chúc của Bác Hồ. Những điều Người viết trong Di chúc là những vấn đề hệ trọng gửi lại cho nhân dân và đất nước; dặn dò toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những nhiệm vụ cần làm. Dù viết “Về việc riêng” thì cũng là những lời dặn và lời “yêu cầu” làm những điều tốt đẹp dành cho con cháu muôn đời sau, không phải để dành riêng cho Người.
Di chúc của Bác chứa đựng những nghĩ suy của một người suốt đời cống hiến, hy sinh, luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng lên trên hết. Đó là những chiêm nghiệm, nghĩ suy, đúc kết không phải chỉ trong quãng thời gian hơn 4 năm Bác viết Di chúc. Cũng không phải là những lời căn dặn vội vàng trước phút lâm chung.
Người viết Di chúc trong lúc “tinh thần đầu óc vẫn sáng suốt”, tâm thế ung dung, tự tại, tựa hồ như một đêm trăng rằm năm nào Bác ngồi trên con thuyền bàn việc quân cơ ở núi rừng Việt Bắc. Cũng theo lời kể của đồng chí Vũ Kỳ: “Bác Hồ suy nghĩ về việc này từ đầu những năm 60, sau khi dự Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế từ Mátxcơva trở về”.
Đọc Di chúc của Bác Hồ chúng ta cảm nhận được tâm thế và suy nghĩ của một bậc vĩ nhân. Một vĩ nhân yêu nước, thương dân tột bậc. Yêu thương khi Người còn sống và yêu thương cho tới mãi mai sau. Từng câu, từng lời trong Di chúc là kết tinh của sự suy xét thấu đáo, như tinh hoa của đất trời đọng lại; là những lo nghĩ về việc chung, việc của Đảng cầm quyền và công việc dựng xây đất nước; là những lời dặn dò hết sức thiêng liêng cùng với tình thương bao la dành cho đồng bào, đồng chí, bạn bè quốc tế gần xa. Thật hiếm có nhân vật lịch sử nào có một tầm nhìn xa trông rộng và tình thương yêu dành cho mọi người mênh mông và bao la như vậy!
Giống như nhiều áng văn quan trọng khác của Người, bản Di chúc được Bác viết hết sức cô đọng, hàm chứa những điều vô cùng lớn lao, hệ trọng.
Thời gian càng qua đi chúng ta càng cảm nhận được sự sáng suốt trong những nghĩ suy, lo toan, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, sự yêu thương nhân dân vô hạn của Người. Đọc lại bản Di chúc lịch sử của Bác Hồ chúng ta càng thêm muôn lần kính yêu, nhớ ơn Bác. Càng thêm hiểu vì sao Bác yêu thương đồng bào, đồng chí miền Nam đến vậy: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”.
Tình cảm của Bác với miền Nam sâu nặng khôn cùng. Tháng 5-1963, nhân kỷ niệm lần thứ 73 Ngày sinh của Người, Quốc hội quyết định tặng Bác Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta. Ngày ấy Bác đã trình bày trước Quốc hội, xin được: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng” (sách Hồ Chí Minh toàn tập; tập 11; trang 62).
Vì miền Nam, thương nhớ miền Nam, Bác Hồ đã từ chối phần thưởng cao quý của Quốc hội dành cho mình. Thay vào đó, Bác quyết định lựa chọn một chuyến đi thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam trước ngày đất nước hòa bình thống nhất.
Thật xúc động biết bao khi chúng ta đọc lại bức thư “Tuyệt mật” gửi Bộ Chính trị, Người viết khi tuổi đã cao, sức đã yếu. Dường như linh cảm sẽ không chờ được tới ngày đất nước hòa bình thống nhất, nên Người thiết tha đề nghị Bộ Chính trị tổ chức cho Người vào Nam để thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ. Bức thư Bác viết tay:
“Chú Duẩn thân mến, Nhớ lại hồi Noel năm ngoái. Chú có ý khuyên B. (Bác) đi thăm đồng bào miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn. B. rất tán thành.
Nhưng nay chỉ đổi chữ “sau” thành chữ trước ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thăm khi anh em trỏng (trong ấy) đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em”.
Bức thư viết ngày 10-3-1968. Trong thư Bác thảo sẵn một kế hoạch cụ thể, ước tính chỉ cần mười ngày chuẩn bị cho chuyến đi. Nhưng do điều kiện chiến trường đương diễn ra ác liệt và sức khỏe của Người nên ước mong thiết tha ấy cũng không được thực hiện. (Tư liệu này hiện lưu giữ tại Nhà trưng bày căn cứ Trung ương Cục miền Nam).
Thật khó lời nào có thể nói hết tình cảm, tấm lòng của Bác dành cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Cả khi Người đã rất yếu thì lúc “tỉnh lại, Bác vẫn hỏi tình hình chiến trường Bình Long - Tây Ninh” (Điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Trung ương Cục miền Nam, ngày 30-8-1969).
Bác Hồ muôn vàn kính yêu về cõi thế giới người hiền tròn 50 năm. Di sản Người để lại cho muôn đời sau là cả một sự nghiệp lớn lao. Đó là cuộc đời bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Người rời Tổ quốc thân yêu với hai bàn tay lao động. Tài sản riêng của Người lúc ra đi là trái tim cháy bỏng và tấm lòng yêu nước, thương dân.
Người ấp ủ “một ham muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập; nhân dân ta được hoàn toàn tự do; đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Một ước mơ giản dị mà tột cùng thiêng liêng, cao cả.
Thực hiện Di chúc của Người, với sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã hoàn thành rất vẻ vang những lời căn dặn của Người. Trong đó nhiệm vụ khó khăn gian khổ nhất là “đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” cùng nhiều nhiệm vụ quan trọng, lớn lao khác. Chúng con có thể vui mừng báo cáo với Bác, dù còn những hạn chế, khiếm khuyết nhất định, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, nhờ đoàn kết trên dưới một lòng, lớp lớp cháu con của Bác đã hoàn thành sự nghiệp lớn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
50 năm đã trôi qua, thời gian càng lùi xa, chúng ta càng thêm thấu hiểu và cảm phục trí tuệ sáng suốt phi thường, cảm phục tầm nhìn của Người. Liệu có ai đã hiểu hết được việc Bác “viết sẵn và để lại mấy lời này” lại trở nên quan trọng với toàn Đảng và toàn dân ta đến vậy. Từng lời, từng chữ của Người chứa đựng tầm nhìn, suy nghĩ của một vĩ nhân. Một vĩ nhân có tấm lòng yêu thương nhân dân tột bậc.
“Ôi thiêng liêng biết mấy những lời của Bác”. Lời một bài hát thấm vào lòng ta, thức tỉnh nghĩ suy, chất vấn lương tâm và trách nhiệm.