Thơ Hoàng Lộc: Tiếng Quảng bên trời lưu lạc

Nhà thơ Hoàng Lộc, sống ly hương gần 50 năm nay, nhưng điều lạ là quê nhà không bao giờ vắng trong thơ ông.

Trong làng thi ca hải ngoại, có những tiếng nói mang theo trọn vẹn quê nhà, không chỉ bằng nỗi nhớ mà bằng cả ngôn ngữ, ký ức và khí chất đặc trưng. Hoàng Lộc, nhà thơ gốc Quảng Nam, là một tiếng nói như thế. Thơ ông không đơn thuần là thơ tình hay thơ hoài niệm. Đó là thơ của một người Quảng đi xa, mang theo cái chất Quảng từ giọng nói, cách nghĩ, đến cả nếp cảm.

Sinh ra ở Thăng Bình và lớn lên giữa phố cổ Hội An, Hoàng Lộc không chỉ kế thừa di sản ngôn ngữ giàu bản sắc mà còn thấm đẫm trong mình khí chất miền Trung: bền bỉ, mộc mạc, thẳng thắn và sâu sắc. Chất Quảng trong thơ ông không phải là sự phô diễn kỹ thuật, mà là một thứ hồn vía đặc biệt, vừa bộc trực, vừa thâm trầm, vừa nghẹn ngào mà cũng đầy ngạo nghễ.

Chân dung nhà thơ Hoàng Lộc - Ảnh: FBNV

Chân dung nhà thơ Hoàng Lộc - Ảnh: FBNV

Có thể nói, Hoàng Lộc là một trong số rất ít nhà thơ dùng phương ngữ Quảng Nam - Đà Nẵng một cách đậm đặc mà vẫn giữ được chất thơ, không sa vào lối sân khấu hóa vùng miền. Ông để phương ngữ hiện diện tự nhiên như hơi thở, như giọng mẹ ru bên nôi. Trong những bài thơ ông, người ta bắt gặp từng từ ngữ thân thương như “lụi hụi”, “dặn chừng”, “lụm cụm”, “chạy đàng trời”, “ngó ngang”, “xụi lơ”, “dật dờ”, “trật lất”, “mấy xí”, “buồn tổ cha”… Không chỉ là lớp vỏ âm thanh, đó là nơi lưu giữ ký ức tập thể, văn hóa dân gian, sự nhọc nhằn lam lũ và cả khí khái Quảng Nam ngấm trong từng tiếng nói.

Như một lời tự trào, Hoàng Lộc từng viết:

"Tôi đưa tôi về Hội An
Bước chân nhớ mẹ dặm đường nhớ cha".

Chất Quảng hiện lên giản dị mà sâu sắc: một người con xứ Quảng tự đưa mình về, bước chân lấm bụi đường nhưng thấm đẫm yêu thương. Không cần khoa trương, chỉ một bước là mang cả hồn quê trở về.

Thơ Hoàng Lộc ngông nghênh cũng có, mà dịu dàng cũng đong đầy, ông viết:

"Tôi đang trở lại quê nhà
Thơm vui kỷ niệm hít hà trẻ thơ".

Câu thơ lục bát này làm hiện lên hình ảnh người con xa xứ vừa đặt chân xuống quê đã hít hà hương thơm ký ức. Hai chữ "hít hà" đầy cảm giác – một xúc giác pha trộn vị giác và hoài niệm.

Người Quảng thường bị xem khó ưa: nói nhiều, nóng nảy, cố chấp, tự ái cao và hay cãi. Nhưng cũng chính từ những cái khó ưa đó, họ có thể sống hết mình, thương hết lòng và nhớ cồn cào. Người Quảng không dễ nhún nhường trong tranh luận, nhưng khi đã thương thì thương đến tận cùng, không tính toán thiệt hơn.

Không cần diễn giải nhiều về tình yêu quê xứ, một câu lục bát mộc mạc mà nghe như cả tuổi thơ đang vỡ òa. “Hít hà” - cách nói rất Quảng - không chỉ là một hành động, mà là một trạng thái xúc cảm: muốn ôm trọn mùi đất, mùi bếp, mùi ký ức vào lòng. Ở đó, kỷ niệm không phải là điều để nhớ mà là thứ có mùi thơm, có hơi ấm, chỉ cần “hít hà” cũng đủ thấy quê nhà sống dậy trong từng nhịp thở.

Thơ Hoàng Lộc không chỉ dùng tiếng Quảng, mà còn mang tư duy, cách sống và tâm lý người Quảng. Cái chất Quảng ấy hiện lên trong những câu thơ yêu thương dữ dội, giận hờn rõ ràng, tự trọng như máu, và nặng lòng với quê như định mệnh.

Hội An hiện về đậm đà trong:

"Hội An chính thị là quê
Mà tôi đã phải xa lìa quá lâu".

Cách dùng “chính thị” – từ cổ rất Quảng, khiến câu thơ vang lên như một lời thề, vừa mềm mỏng vừa kiên cường. Đây là Hội An, không phải phố cổ du lịch, mà là quê nội tâm của một con người tha hương.

Ông không viết quê nhà bằng những biểu tượng lộng lẫy mà bằng chi tiết đời thường: một góc phố cũ, một tiếng gọi “mẹ ơi”, một chuyến đò trưa, một cơn mưa lụt miết. Chính cách dùng từ thô mộc ấy lại chạm đến tận cùng cảm xúc, bởi đó là cách một người Quảng nói về yêu thương, không vòng vo, không làm dáng, mà thành thật như đất nâu, như sông Thu Bồn cuộn chảy.

Thơ Hoàng Lộc vẫn man mác buồn, nhưng cái buồn mang tinh thần kháng cự lặng thầm, một kiểu kháng cự mềm của người Quảng từng trải:

"Cuối năm anh vẫn nơi này
Mẹ cha lạnh nghĩa trang đầy ở quê".

Nỗi nhớ cha mẹ không nằm ở nước mắt, mà ở sự lặng im. Cuối năm là thời khắc người ta hướng về cội nguồn, nhưng “anh” không thể về, chỉ biết chép miệng giữa cái lạnh của xứ người. Câu thơ lặng mà buốt.

Tập Thơ cuối trăm năm (NXB Văn học, 2024) của Hoàng Lộc

Tập Thơ cuối trăm năm (NXB Văn học, 2024) của Hoàng Lộc

Tình yêu trong thơ ông cũng nhuốm màu tình si rất Quảng: dám yêu, dám dằn lòng, dám chờ. Đó không phải thứ tình mềm mại, ủy mị, mà là thứ tình nói ngang nói dọc, thương thì thương dữ dội, mà buồn cũng buồn tổ cha như chính ông từng viết:

"Cứ như mái phố xiêu tàn
Yêu không mấy xí mà buồn tổ cha".

Một câu thơ tưởng như nói chơi, nhưng thực ra là lối biểu đạt đặc trưng của người Quảng: bộc trực, dí dỏm, và đầy cảm xúc.

Ngay cả trong tình yêu, thứ cảm xúc vốn dễ mềm yếu và ủy mị Hoàng Lộc cũng giữ trọn cái giọng điệu Quảng: bộc trực, ngang tàng mà sâu kín đến nao lòng. Trong một đoạn thơ ngắn, ông viết:

"Trái tim cà chớn bây giờ
Từng theo qua ngõ và đưa, em cầm
Cuối đời bỗng thấy sượng trân
Mới hay ta cũng chẳng cần chi nhau".

Chỉ vài câu lục bát, mà đậm đặc cả một thứ tình yêu kiểu Quảng: không vòng vo, không ướt át, mà nói bằng ngôn ngữ đời sống – với “cà chớn”, “sượng trân”, “cần chi”. Trái tim được gọi là “cà chớn” – ngổ ngáo, bướng bỉnh, từng dại khờ theo đuổi người con gái “qua ngõ” – một hình ảnh rất quen thuộc của miền quê. Và rồi “cuối đời”, khi nhìn lại, chỉ còn lại sự “sượng trân” – một cảm giác khó tả, vừa tiếc nuối vừa chán chường. Câu kết “chẳng cần chi nhau” là một cú rút gọn rất Quảng: chấp nhận buông mà không gào khóc, không trách móc, chỉ lắc đầu rồi đi. Một thứ yêu thương không màu mè, không bi lụy mà thật như đất cát miền Trung, sòng phẳng và thầm lặng như lòng sông mùa cạn.

Thậm chí trong nỗi cô đơn, ông vẫn thầm gọi:

"Tôi về tôi ngủ trong tôi
Giấc riêng tiếng mẹ ru hoài tiếng em".

Một sự trở về hoàn toàn nội tâm: nơi chỉ còn giấc mơ, tiếng ru của mẹ và tiếng của người con gái. Tình quê và tình yêu hòa tan vào nhau.

Và khi đã trải đủ buốt giá, ông viết:

"Biết sông nhớ thuở đầu nguồn
Khi lòng chảy đủ cô đơn đất trời".

Một câu thơ lục bát thấm triết lý: quê nhà như đầu nguồn, và chỉ khi cô đơn chảy xiết, người ta mới biết nỗi nhớ quê sâu nhường nào. Chất Quảng, với Hoàng Lộc, không phải để khoe, mà là để giữ, để cất, để trở về.

Nhà thơ Hoàng Lộc, sống tha phương nước người gần 50 năm nay, nhưng điều lạ là, quê hương không bao giờ vắng mặt trong thơ ông. Trái lại, càng xa, ông càng viết đậm hơn. Không ít bài thơ của ông là hồi âm cho một lời gọi từ quê, lời mẹ, lời người tình cũ, lời của phố Hội ướt sương hay tiếng gà gáy giữa đồng Thăng Bình. Trong nỗi hoài hương ấy, thơ ông trở thành một hành vi giữ quê, bằng tiếng nói, bằng ký ức, bằng tình cảm không bao giờ chịu phai.

Trong thế giới thơ rộng lớn, Hoàng Lộc chọn một con đường hẹp, con đường giữ lại quê hương trong từng vần thơ. Và ông đã đi trọn con đường ấy, bằng lòng thủy chung, bằng tự trọng, bằng giọng Quảng chan chát mà nồng nàn không ai thay thế được. Đọc thơ ông, người ta không chỉ gặp một nhà thơ, mà gặp cả một miền đất Quảng Nam hiện lên nguyên vẹn, gần gũi và không thể thay thế.

Tiểu Vũ

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/tho-hoang-loc-tieng-quang-ben-troi-luu-lac-232955.html