'Thời nắng xanh & những bài thơ khác'trong cảm xúc của tôi
Nhà thơ Trương Nam Hương là cây bút có dấu ấn tên tuổi trong lòng bạn đọc từ những năm 80 của Thế kỷ trước. Anh cũng từng đạt danh hiệu 'Nhà thơ được yêu thích nhất' do Báo Người Lao động bình chọn và phong tặng từ năm 1992.
Với tôi và rất nhiều bạn đọc cùng thế hệ, thơ Trương Nam Hương đã đi cùng năm tháng với mình. Giờ cầm cuốn “Thời nắng xanh & Những bài thơ khác”, lại như được gặp người thơ tài hoa - đa tình và lãng tử ấy.
148 bài thơ sáng tác dọc đời thơ đã về tụ hội. Thỏa sức hội tụ những đặc điểm tinh hoa nổi bật nhất của thơ Trương Nam Hương: Thông minh cách nhìn, tài hoa câu chữ và tinh tế cảm xúc.
Trời sinh ra người đời có đôi mắt để nhìn. Nhà thơ không khác người đời “Giàu hai con mắt”, nhưng nhà thơ khác người đời ở cách nhìn. Họ nhìn bằng trái tim, trí óc, bằng cảm giác, linh cảm và cả trí tưởng tượng về mọi điều trong nhân thế. Nhưng trong cách nhìn, các nhà thơ cũng không giống nhau. Bởi họ đứng ở góc độ khác nhau và tài hoa khác nhau. Thơ Trương Nam Hương điển hình cho điều ấy.
Nhà thơ Trương Nam Hương.
Trước hết, anh thông minh trong cách nhìn và thể hiện cách nhìn. Ví như với các nhân vật Thị Mầu, Thúy Vân, Chí Phèo trong tác phẩm văn học Việt Nam. Anh không chỉ hóa thân làm họ mà còn nhìn thấy “ruột gan” họ ở một góc nhìn khác hẳn với người đời thường nghĩ. Với cách nhìn phát hiện này, ta gặp một Thị Mầu rất đáng cảm thông bởi bản năng đàn bà: “Tin yêu vụng dại đâm liều/ Em chơi vơi quá đơm điều chị thôi” (Ưu tư Thị Mầu). Ta gặp một Thúy Vân không hề vô tư nông nổi, biết đòi quyền yêu chính đáng cho trái tim mình: “Lấy người yêu chị làm chồng/ Đời em thể thắt một vòng oan khiên” (Tâm sự nàng Thúy Vân) và gặp một Chí Phèo bị đẩy đến bước đường cùng phải: “Chửi cho vỡ chén để vày mặt thôi” chứ đó là con người lương thiện nhất trong cõi đắng cay, hiểm ác, nghèo khổ mà “Khát khao lương thiện có thành được đâu” (Chí Phèo tự bạch).
Thơ Trương Nam Hương còn thể hiện cách nhìn thông minh về tình yêu khiến anh có duyên, thu hút phụ nữ, về thế sự khiến người đọc phải ngẫm nghĩ xót xa mà không nổi loạn đối kháng, về bà, về cha mẹ, khiến ta động lòng trắc ẩn mà thương cảm muôn kiếp người. Và đây là cách nhìn thời gian của nhà thơ tài hoa: “Thời gian rúc lòng người như mối vậy” (Gặp Kiều tiết Thanh minh); “Từ trong mắt/ Sông vừa trôi ngang cửa/ Mang nhan sắc những người đàn bà/ Về đâu/ Không hay” (Màu hoa khác); “Em qua xuân sắc bao giờ/ Để chân lược nhắc chiều thưa mái đầu” (Gửi hai dòng sông quê); “Thời gian lệch gió trên đầu/ Sớm hay sợi tóc chuyển màu sang trưa” (Nhặt tuổi mình); “Da mặt ngoại như vỏ cây tróc lở” (Thời nắng xanh)…
Thơ Trương Nam Hương còn thể hiện thông minh trong cách nhìn ở những câu thơ mơ hồ nhưng giàu sức liên tưởng, đầy gợi cảm: “Em hây hẩy khép chiều ngấn mẩy/ Sương buông nghiêng bóng liễu mơ gì” (Về lại); “Em nhón gót cho thời gian tụ lại/ Tay học trò giọt Hạ rớt lem xanh” (Sau lưng mùa Hạ cũ); “Đêm rập rình đom đóm giấu tai ương…/ …Mẹ âm thầm vá víu lại niềm tin” (Tạp cảm).
Những câu thơ trên, không cụ thể rõ ràng một điều gì mà ai cũng hiểu. Nhưng bởi nó mơ hồ nên nhiều cách hiểu khác nhau, bởi nó gợi mà sự tưởng tượng của người đọc tha hồ mơ mộng. Ấy là phẩm chất đích thực của thơ. Nhưng viết được thế không nhiều người.
Một thành công làm nên giá trị tập thơ mà nhiều bạn đọc tâm đắc là: thơ Trương Nam Hương tài hoa câu chữ. Điều này thể hiện ở việc sáng tạo từ ngữ và Phá cách luật thơ.
Chưa thống kê hết mà tập thơ đã có khoảng 3 chục từ “mới toanh” không hề có trong Từ điển tiếng Việt:
Sông lơ lạc; Nắng tung tuây; sông thon thắt; tiếng sông úng ớ; xanh xót đầu thu; thun thăn váy lá; cây khẳng khơ; Hà Nội lung liêng; trời đất ngây ngoai; Dênh giao giữa khoảng khuyết bồi; chớp bờ đê nháy nhóa; ghẹo ngốc ngây; thu nhơm nhớm tím; Xao xít dây bìm; dây khoai huây hoải; ngao ngát dây bìm; sóng nước ngung nguây; heo may ngao ngát; hoe hoét nắng; Em hây hẩy khép chiều ngấn mẩy; buồn lơ lạc; hơi mẹ ấp òa; bạn cười nhúm nhó; thấm thắc trôi; nở trên khấc khô; thấm thểnh oai xưa; phơ phay tóc mình; nhếch nhơ hè phố; tôi thơm thao bùn đất; loăn thoăn đồng đất; em hây hẩy muốt…
Sự sáng tạo này vừa làm mới ngôn ngữ thơ vừa tạo ra nhiều gợi cảm. Điều quan trọng là những từ sáng tạo đó vẫn gợi được hình, gợi được thanh, gợi được cảm, đôi khi gỡ bí cho thơ trong lúc gieo vần mà vẫn giữ được ý của câu thơ một cách tài tình: “Mùa đừng chuốc lá ta say/ Nhìn lên trán bạn phơ phay tóc mình” (Viết ở Nghi Tàm).
Về tài phá cách luật thơ và sáng tạo thể loại thơ: Đây chính là Trương Nam Hương đang đổi mới thơ nhằm thoát ra khỏi sự nhàm chán, cũ càng mà bấy lâu thơ đang tồn tại. Anh tung tẩy hình thức. Thơ không gò vào 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, lục bát, thất ngôn hay thơ tự do. Thơ anh phá cách về vần, luật, tạo thành một giọng điệu thơ khác lạ, tự nhiên, giúp người đọc cải thiện thính giác, giúp tập thơ có sức hút vì không cũ càng, nhàm chán với những âm điệu vần luật truyền thống quá gò bó.
Và cuối cùng tôi muốn nói tới một tài hoa nữa nhờ câu chữ của thơ mà nhận ra. Ấy là sự tinh tế trong cảm xúc.
Nếu chưa biết tác giả, chỉ đọc “Thời nắng xanh & những bài thơ khác”, hẳn ai cũng công nhận đây là cây bút đa tình và sâu sắc. Đa tình là bản tính của tất cả người làm thơ. Không đa tình không làm được thơ. Nhưng làm được thơ đạt đến độ sâu sắc, kéo được tâm hồn người khác nhập vào tâm trạng của mình thì khó. Vậy mà gần hết cả tập thơ, Trương Nam Hương đã đạt được điều ấy: “Chao ôi trời lẻ cánh diều/ Gió đâu thổi quắt một chiều xa quê” (Tha hương).
Một từ “quắt” dùng đúng lúc đúng chỗ là bật lên được tâm trạng. Có gì thương nhớ quắt ruột quắt gan. Có gì cô đơn quắt lòng quắt dạ, có gì thiếu vắng quắt queo tâm hồn… Chỉ một từ thôi mà thành tâm điểm nhức nhối, lan tỏa ra mọi tâm trạng. Ấy là tinh tế. “Rạ rơm vây ấm một vùng/ Bọc con vào giữa tận cùng hồn quê” (Khói bếp xưa).
Trong tập thơ, có khoảng 2 chục bài, nhà thơ viết về mẹ, có hình ảnh mẹ hoặc nhắc nhiều đến mẹ. Có 4 bài thơ viết về bà và 2 bài thơ về cha. Điều tinh tế là mỗi bài một tâm sự, một nỗi niềm riêng mà không trùng lặp tâm trạng, không trùng lặp hình ảnh, không trùng lặp ý tứ, không giống ai cách viết về cha mẹ (hoặc bà) của mình. Theo tôi, chùm thơ về mẹ cha và bà đã làm nên sức nặng giá trị nhất của tập thơ. Bởi bài thơ nào cũng sâu sắc, cũng gây ấn tượng, cũng để lại nỗi buồn thương da diết vì những câu thơ tinh tế giàu cảm xúc: “Ta từng khóc hoàng hôn tóc mẹ/ Hoa xoan rơi qua tuổi vô tình/ Kinh Bắc níu tháng ngày son trẻ/ Mẹ xuống đò nhận đắm thời xanh/ Phải quan họ mẹ buồn từ đấy/ Những đêm mưa Hà Nội đèn dầu/ Mẹ nhìn chớp bờ đê nháy nhóa/ Lặng ngước về Kinh Bắc hồi lâu…” (Hồi tưởng).
Viết về mẹ, Trương Nam Hương không tả hoặc kể như bao người khác mà chỉ dùng phép biểu cảm là chính. Nhưng hiện lên chân dung một người mẹ đồng bằng Bắc bộ tảo tần và tài giỏi. Nghèo và nặng nghĩa. Thương yêu và chịu đựng. Đẹp và buồn.
Viết về cha, Trương Nam Hương có bài “Dâng cha” và bài “Lời thưa”. Vẫn không tả, không kể. Duy chỉ có cảm xúc trong ngôn từ và ý nghĩ của tác giả. Người cha hiện lên với quê hương xứ xở, với cảnh đời buồn thương của người đàn ông xứ Huế tài hoa đa đoan: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...” (Lời thưa).
Viết như thế là bóc từng lớp tâm trạng, vào đến tận cùng nỗi đời con người.
Phải từng trải, phải giàu vốn sống, phải có con mắt tinh đời, phải tài năng… nói chung là “phải” nhiều lắm thì thơ mới đạt được sự tinh tế trong cảm xúc như vậy.
Trong muôn vàn tập sách xuất bản tuôn trào ở những năm tháng này, “Thời xanh nắng & những bài thơ khác” là tập thơ đáng lưu giữ. Bởi những bài thơ trong đó đắp bồi cho ta thêm phong phú ngôn từ, góp phần làm giàu tiếng Việt. Cho ta những kinh nghiệm sáng tạo thú vị và chia sẻ những cảm xúc tinh tế giúp ta chạm đến được tâm hồn mình, giúp ta sống chân thiện mĩ hơn với cuộc đời này.