Thông điệp từ Lũng Cú

Có người từng bảo, chưa lên cao nguyên đá thì xem như chưa đến Hà Giang, còn tôi lại cho rằng, chưa lên Lũng Cú, chưa được chạm tay vào cột mốc quốc gia thiêng liêng nơi cực Bắc Tổ quốc thì coi như chưa đến cao nguyên đá. Nói vậy để thấy rằng, Lũng Cú có ý nghĩa đặc biệt, là điểm hẹn kỳ diệu đối với muôn dân đất Việt.

Tháng 10, đất trời cao nguyên đá dường như lúc nào cũng phủ màn sương mù đặc quánh, đến độ chỉ cách nhau vài mét mà không thể nhìn rõ mặt nhau. Chúng tôi nghỉ đêm ở thị trấn Đồng Văn sau hành trình dài vượt dốc, đổ đèo với cả nghìn khúc cua tay áo. Đoàn lên kế hoạch hôm sau đi Lũng Cú từ sớm để chứng kiến chợ phiên Ma Lé họp ven đường với đủ sắc màu của đồng bào các dân tộc nên ai cũng háo hức và rất đúng hẹn. Quãng đường từ Đồng Văn lên Lũng Cú dài chừng 24 cây số, chiếc xe dò dẫm từng mét đường trong sương sớm. Mải mê với văn hóa chợ phiên ở Ma Lé nên đoàn đặt chân đến Lũng Cú khi trời đã hửng nắng, sương tan dần và cái giá lạnh miền sơn cước cũng phần nào vơi bớt.

 Cột cờ Lũng Cú nhìn từ trên cao.

Cột cờ Lũng Cú nhìn từ trên cao.

 Du khách chụp ảnh kỷ niệm trên cột cờ Lũng Cú.

Du khách chụp ảnh kỷ niệm trên cột cờ Lũng Cú.

Nhìn từ xa, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió đầy kiêu hãnh trên cột cờ Lũng Cú, tâm trạng ai cũng thấy xúc động và quá đỗi tự hào, đó như một phần thưởng, sự đền đáp xứng đáng sau hành trình gian nan bởi đèo cao, vực thẳm. Thì ra Lũng Cú là đây, cột cờ sừng sững trên đỉnh núi Rồng là đây-nơi mà biết bao người từng ước ao một lần được đến. Xung quanh núi Rồng là các bản làng của người Lô Lô, người Mông, người Giáy ẩn hiện qua lớp sương mờ, những nếp nhà trình đất, lợp ngói âm dương nâu trầm óng ả, một khung cảnh thật yên bình biết mấy. Bếp khói ngút lên từ các gia đình đồng bào tạo cho du khách thêm cảm giác ấm áp ở miền biên viễn vốn rất lạnh vào mỗi mùa đông.

Cô gái dân tộc Giáy thuyết minh tại Di tích quốc gia cột cờ Lũng Cú có tên là Lục Quỳnh Anh còn rất trẻ và duyên dáng. Quỳnh Anh mới tốt nghiệp Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, nhận công tác về đây chưa lâu. Vừa dẫn đoàn leo qua những bậc đá, cô gái trẻ vừa hăng say giới thiệu về truyền thống, những phong tục tập quán, cội nguồn bản sắc, về quê hương và đặc biệt là cột cờ Lũng Cú. Cô gái tự hào kể: Lũng Cú tiếng Mông gọi là Lũng Ngô (tiếng Mông "cú" có nghĩa là "ngô"). Còn đồng bào Lô Lô thì gọi Lũng Cú là Long Cư-nơi rồng ở (theo phiên âm tiếng Hán). Đồng bào còn âm vang mãi những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại rằng: Khi xưa, thấy nơi đây non cao cảnh đẹp, rồng tiên xuống thưởng lãm nhưng vì chứng kiến cuộc sống của người dân còn nhọc nhằn, phải canh tác trên núi đá tai mèo, nước ăn cho con người không đủ huống chi nước sản xuất cho cây trồng, vật nuôi. Thương cảm với đồng bào, rồng tiên đã để hai con mắt tại nơi này. Và hai mắt rồng đã hóa thành hai hồ nước ở chân núi, người dân vẫn gọi là “long nhãn” (mắt rồng). Một hồ nước của làng Thèn Pả (làng của dân tộc Mông) và một hồ của làng Lô Lô Chải (của người Lô Lô). Điều kỳ diệu là nước ở hai hồ này không bao giờ cạn, nguồn nước ấy tiếp thêm sức sống mạnh mẽ hơn cho đồng bào trên miền đá quanh năm khô cằn.

Cột cờ Lũng Cú nằm trên đỉnh núi Rồng, bước qua 839 bậc đá, đứng trên đỉnh núi phóng tầm mắt thấy cả một vùng giang sơn cẩm tú của Việt Nam. Ngước nhìn lên, phấp phới lá cờ đỏ sao vàng rộng 54m2 tượng trưng cho 54 dân tộc đang tung bay trong gió-biểu tượng thiêng liêng của chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Một cảm giác đầy tự hào, xúc động đến khó tả khi được chạm tay vào cột mốc quốc gia nơi cực Bắc biên cương được mệnh danh là “nóc nhà của Việt Nam".

Tương truyền rằng khi xưa, Lý Thường Kiệt hội quân về trấn ải vùng đất biên thùy này, đã cho cắm một lá cờ trên đỉnh núi Rồng để khẳng định chủ quyền. Sử cũ cũng chép: Thời Tây Sơn, khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm lược phương Bắc đã nhận ra tầm quan trọng của vùng đất này nên cho xây dựng đồn gác, ông cho đặt một trống đồng, mỗi canh giờ được đánh lên 3 hồi, tiếng trống vang xa để khẳng định chủ quyền.

Sau này, lực lượng Bộ đội Biên phòng Việt Nam cho cắm cột cờ trên đỉnh núi Rồng bằng cây sa mộc và kiên cường ngày đêm đóng chốt, thầm lặng bảo vệ từng tấc đất của cha ông để lại. Sau nhiều lần trùng tu, cột cờ ngày nay được xây dựng hình bát giác, có chiều cao 33,15m, xung quanh thân cột gắn hình 8 mặt trống đồng Ðông Sơn và dưới chân cột cờ là 8 tấm phù điêu minh họa cho các thời kỳ lịch sử của đất nước.

Ngày nay, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước bằng những chính sách, đầu tư hệ thống hạ tầng điện, đường, trường, trạm, hồ nước thủy lợi, bể nước sinh hoạt tại các gia đình... cuộc sống của đồng bào vùng cao nguyên đá nói chung, ở Lũng Cú nói riêng phần nào bớt đi những nhọc nhằn. Cái đói, cái nghèo rồi sẽ dần đi vào quá khứ. Đặc biệt, đồng bào Mông, Lô Lô, Giáy... vốn chỉ quen gắn bó với nương ngô trên núi đá tai mèo thì nay bắt đầu biết chuyển sang làm du lịch cộng đồng để khơi dậy tiềm năng mạnh mẽ. Ở bản Lô Lô Chải, nhiều gia đình đã đầu tư và cung cấp dịch vụ homestay. Ngoài cho thuê phòng nghỉ, một số gia đình còn nấu các món ăn truyền thống phục vụ du khách, họ trồng hoa tam giác mạch để du khách chụp ảnh... Chúng tôi hiểu rằng, để lá cờ đỏ sao vàng luôn tung bay trên đỉnh núi Rồng là biết bao giọt mồ hôi, sự mưu trí, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ biên phòng và người dân nơi đây. Lá cờ ấy luôn gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt của quân và dân nơi đây, góp phần mang lại bình yên, bảo vệ vững chắc bờ cõi mà cha ông bao đời gây dựng, giữ gìn.

Bài và ảnh: ĐÔNG KHÁNH

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/thong-diep-tu-lung-cu-602784