Thu hẹp áp dụng hình phạt tử hình: Xu hướng đúng
Việc bỏ bớt hình phạt tử hình ở Việt Nam góp phần giải quyết được những vấn đề tồn đọng cấp bách liên quan đến thực tiễn thi hành án tử hình hiện nay.
LTS:Tại phiên họp Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương mới đây, Chủ tịch nước Lương Cường đã yêu cầu các cơ quan chức năng nghiên cứu giảm bớt hình phạt tử hình. Chiều 10-3, trong cuộc họp triển khai nhiệm vụ tổng kết và xây dựng BLHS sửa đổi, Bộ Tư pháp cũng kiến nghị bổ sung trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình.
Báo Pháp Luật TP.HCM xin góp ý cụ thể về vấn đề này.
***
"Giảm tội bị áp dụng hình phạt tử hình, tăng cường áp dụng biện pháp chuyển đổi từ hình phạt tử hình sang hình phạt tù" là một trong những giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đến năm 2030 là xây dựng “Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo...” đã được đề ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9-11-2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Quang cảnh một phiên tòa hình sự tại TAND TP.HCM. Ảnh: SONG MAI
Một số lý do để giảm bớt hình phạt tử hình
Việc bãi bỏ hình phạt tử hình, hoặc quy định nhưng không áp dụng hoặc áp dụng nhưng hoãn thi hành hình phạt tử hình, sau đó có thể chuyển thành hình phạt tù đang là xu hướng và nỗ lực chung của các quốc gia trong nhiều thập niên qua. Ngoài ra, việc loại bỏ bớt hình phạt tử hình ở Việt Nam còn góp phần giải quyết được những vấn đề tồn đọng cấp bách liên quan đến thực tiễn thi hành án tử hình hiện nay.
Có thể nêu khái quát một số lý do để giảm bớt hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành như sau:
Bổ sung trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình
Chiều 10-3, Bộ Tư pháp triển khai nhiệm vụ tổng kết thực tiễn thi hành và xây dựng Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
Bộ Tư pháp đã đề xuất, kiến nghị nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó, Bộ Tư pháp đề xuất nghiên cứu, hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình theo hướng bổ sung trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình;
Hoàn thiện quy định đối với trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình đối với trường hợp phạm tội tham ô tài sản, nhận hối lộ mà trước khi kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Thứ nhất, áp dụng và thi hành hình phạt tử hình được cho là không phù hợp với quyền được sống và quyền được sống không bị tra tấn hoặc đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục như đã được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế (Điều 6, Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1966). Việc bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới là cần thiết để nâng cao phẩm giá con người và phát triển các quyền con người.
Đến cuối năm 2023 đã có 112 nước bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong luật đối với tất cả các tội phạm, 23 nước bỏ trong thực tiễn (còn giữ hình phạt tử hình trong luật đối với một số tội phạm thường (ordinary crime) như giết người nhưng thực tế không thi hành vụ án nào hơn 10 năm qua).
Thứ hai, hiện nay theo đánh giá chung trên phạm vi toàn cầu, vẫn chưa có cơ sở để khẳng định rằng hình phạt tử hình sẽ phòng ngừa hiệu quả đối với tội phạm, ngược lại người bị thi hành án tử hình đem lại những tổn thương, tốn kém cho xã hội và người thân thích là rõ ràng.
Ngoài ra, không thể loại trừ tuyệt đối rủi ro oan sai trong áp dụng hình phạt tử hình mà hậu quả là không thể khắc phục được. Hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng chỉ là một trong những biện pháp phòng ngừa tội phạm mà tác dụng của nó cũng bị giới hạn, đồng thời để lại những tác động tiêu cực. Thay vì tăng cường áp dụng hình phạt và hình phạt nghiêm khắc nhất như tử hình để phòng ngừa tội phạm thì cần chủ động phòng ngừa sớm bằng những biện pháp xã hội.
Thứ ba, hoạt động phòng, chống tội phạm hiện nay cần có sự hợp tác của cộng đồng quốc tế, của nhiều quốc gia. Hình phạt tử hình trong luật hình sự có thể gây trở ngại nhất định trong tương trợ tư pháp và dẫn độ.
Nếu quốc gia quy định hình phạt tử hình về một tội cụ thể nào đó, yêu cầu quốc gia khác dẫn độ người phạm tội đang hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia đó, mà quốc gia này không quy định hình phạt tử hình thì quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ, trừ khi quốc gia yêu cầu cam kết không kết án tử hình.
Thứ tư, pháp luật hình sự Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung, đó là đã và đang nỗ lực về mặt lập pháp để bỏ dần hình phạt tử hình qua những lần xây dựng các bộ luật hình sự (1985, 1999 và 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tử hình vẫn còn tồn tại ở mức độ đáng ngại. Việc tổ chức thi hành hình phạt tử hình cũng mất nhiều thời gian, thủ tục, công sức và kinh phí. Thời điểm năm 2023, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới đánh giá việc thi hành án tử hình hiện nay rất chậm và còn tồn đọng rất nhiều.
Phương án loại bỏ bớt hình phạt tử hình
Vậy, phương án loại bỏ bớt hình phạt tử hình trong BLHS như thế nào? Thời điểm này nếu đưa ra phương án loại bỏ toàn bộ hình phạt tử hình ra khỏi BLHS sẽ khó đạt được sự đồng thuận của xã hội cũng như của các nhà lập pháp, bởi chắc chắn có sự e ngại về tình hình tội phạm, đồng thời còn kỳ vọng vào tác dụng, hiệu quả răn đe của hình phạt tử hình. Vì thế, nghiên cứu phương án loại bỏ bớt hình phạt tử hình trong một số tội phổ biến, đồng thời thu hẹp bớt phạm vi áp dụng hình phạt tử hình của một số tội khác là giải pháp thận trọng và phù hợp hơn
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Mặc dù BLHS quy định hình phạt tử hình đối với các tội của 18 điều luật nhưng thực tế hình phạt này chủ yếu được áp dụng đối với các tội phạm về ma túy (hiện nay hình phạt tử hình được thống kê chung với hình phạt chung thân nên không có số liệu riêng về tình hình áp dụng hình phạt này), đặc biệt là tội mua bán trái phép chất ma túy (tội sản xuất trái phép chất ma túy chiếm tỷ trọng không đáng kể); tiếp theo là tội giết người. Những tội còn lại rất ít áp dụng hình phạt tử hình trong thực tế (các tội tham ô, nhận hối lộ, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, khủng bố (Đ.299). Sáu tội có hình phạt tử hình trong nhóm xâm phạm an ninh quốc gia từ nhiều năm qua trên thực tế chưa áp dụng hình phạt này. Riêng các tội thuộc nhóm phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh thực tế chưa xảy ra ở Việt Nam.
4 tội danh cần bỏ hình phạt tử hình
Trên cơ sở xem xét đặc điểm của từng tội và tình hình tội phạm, tình hình áp dụng hình phạt tử hình, có thể đề nghị loại bỏ bớt hình phạt tử hình đối với các tội sau đây:
Một là, nên chăng nghiên cứu bỏ hình phạt tử hình đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250). Đối với các tội phạm về ma túy, hiện nay việc áp dụng hình phạt chủ yếu căn cứ vào khối lượng hoặc thể tích chất ma túy được sản xuất, mua bán, vận chuyển trái phép mà không tính đến kết quả thu lợi bất chính.
Trong 3 tội phạm về ma túy có quy định hình phạt tử hình thì tội vận chuyển trái phép chất ma túy có khả năng thu lợi bất chính thấp hơn hai tội còn lại, chủ yếu từ tiền công vận chuyển (có vụ án chỉ một vài triệu đồng cho một lần vận chuyển nhưng vẫn bị kết án tử hình). Hơn nữa, những người phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy thường là người lao động nghèo như chạy xe ôm, làm thuê, người không có nghề nghiệp ổn định, người nghiện…
Nếu áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy có thể vô tình tạo ra sự bất công và gây tổn thương cho xã hội. Cơ quan của Liên hợp quốc về tội phạm và ma túy xem những người này là người phạm tội ma túy cấp thấp (lower level drug offenders), không phải là những nhân vật chính trong các vụ án ma túy.
Hai là, nên bỏ hình phạt tử hình đối với tội tham ô (Điều 353), tội nhận hối lộ (Điều 354) và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194). Mặc dù được quy định ở những chương khác nhau trong BLHS với lý do xâm phạm các khách thể khác nhau nhưng bản chất là những tội phạm “có tính chất kinh tế”, phạm tội vì vụ lợi. Khó có thể lập luận rằng những người phạm tội này là “mất nhân tính”, “không còn khả năng giáo dục, cải tạo” để áp hình phạt tử hình mặc dù hậu quả có thể đặc biệt nghiêm trọng. Đây là những tội mà hầu như các nước không còn quy định, áp dụng hoặc thi hành hình phạt tử hình.
Một trong những mục tiêu ưu tiên của chống tham nhũng hiện nay là thu hồi tài sản tham nhũng chứ không chỉ trừng phạt người phạm tội. Đó cũng là lý do tại sao Điều 40 BLHS hiện hành quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ nếu sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Nếu áp dụng hình phạt chung thân có giảm án sẽ tạo động lực cho người bị kết án cố gắng khắc phục hậu quả và nỗ lực cải tạo. Điều này có lợi xét ở nhiều khía cạnh hơn so với việc kết án và thi hành án tử hình đối với họ. Riêng tội nhận hối lộ, của hối lộ không phải là tài sản bị chiếm đoạt cần được khắc phục, thu hồi như tội tham ô, vì thế quy định hình phạt tử hình đối với tội này rất khó thuyết phục.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh mặc dù có thể gây ra hậu quả đặc biệt lớn nhưng xét cho cùng phạm tội vì vụ lợi. Nếu cơ quan quản lý phòng ngừa tốt thì sẽ ngăn chặn được tội này mà không cần thiết phải quy định hình phạt tử hình.
Thu hẹp phạm vi các trường hợp áp dụng hình phạt tử hình
Bên cạnh việc bỏ án tử hình ở 4 tội trên thì cần rà soát để thu hẹp phạm vi các trường hợp áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội: sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248), mua bán trái phép các chất ma túy (Điều 251).
Cụ thể là xem xét nâng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy sản xuất, mua bán (so với hiện nay) làm mức tối thiểu để có thể áp dụng hình phạt tử hình. Điều này xuất phát từ thực tế là khối lượng, thể tích chất ma túy được sản xuất, mua bán hiện nay trong các vụ án thường lớn hơn nhiều lần so với trước đây. Nếu quy định như hiện nay thì tình hình áp dụng hình phạt tử hình trong các vụ án về ma túy vẫn còn cao.
Như vậy, sau khi loại bỏ bớt hình phạt tử hình và thu hẹp các trường hợp áp dụng hình phạt từ hình thì BLHS còn giữ lại hình phạt tử hình của các tội trong 14 điều luật (giảm bớt các tội của 4 điều luật).
Đó là 6 tội thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, 3 tội (nhóm tội) thuộc nhóm phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (mặc dù thực tế không áp dụng nhưng nếu xảy ra hậu quả rất lớn, được coi là những tội ác); tội thuộc nhóm các tội phạm về ma túy (tội sản xuất trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy) nhưng có thu hẹp nội dung áp dụng; 2 tội thuộc nhóm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người (tội giết người, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi) và tội khủng bố.
Nguồn PLO: https://plo.vn/thu-hep-ap-dung-hinh-phat-tu-hinh-xu-huong-dung-post838520.html