Thủ thỉ chuyện tết

Một năm trôi đi.

Tờ lịch cuối cùng trong lốc cũ đã hết, thay lốc mới lại cứ chăm chăm vào bên dưới. Những ngày tháng Chạp đến và dường như đi qua nhanh hơn.

Những ngày này, nhớ nhất, quý nhất là lúc ông bà, cha mẹ, anh em đều tề tựu đông đủ để chuẩn bị một cái tết thật đầm ấm. Khi ấy, đang thời bao cấp, mọi thứ đều rất khó tìm, khó mua và khó đổi! Nhưng không hiểu sao mẹ vẫn lo được, lo từ tháng mười lo đi, từ ký đường, ký nếp, ký đỗ, chồng bánh tráng; còn ba thì lo về quê chuẩn bị rau củ và đụng thịt heo. Cũng vào lúc ấy, anh em tôi học xa, thư từ qua lại hẹn nhau cùng về trước ngày tiễn ông Táo, kịp cho hôm sau cùng ba đi tảo mộ gia tộc.

“Dẫy mả tổ”, lúc còn nhỏ chưa hiểu hết ý nghĩa, nhưng khi lớn lên chúng tôi mới nhận ra chính nhờ việc này mà ít nhất mỗi năm, chúng ta mới được “gặp” từng người thân dòng tộc đã nằm xuống, mới kính cẩn cúng bái giữa khói hương nghi ngút hòa trong nắng se vàng ấy mà mời mọi người về lại gia đình đón tết. Đó là việc đầu tiên nhất được truyền qua nhiều thế hệ, như mỗi năm nơi quê nhà nào cũng có hàng vạn thọ đơm bông, cánh mai vàng trổ nụ và cặp bánh tét trên bàn thờ gia tiên.

Những ngày chuẩn bị đón tết, mọi người tất bật, nhà nhà tất bật. Bộ lư hương, bàn thờ, cửa nhà ra đến tận ngõ đều sáng choang, mới mẻ. Tất cả như bừng lên sau những tháng đông dài giá lạnh bởi có hoa lá và nắng mới. Tôi nhớ, không chỉ ánh mắt trẻ thơ long lanh mà mắt người già cũng bớt mờ đục khi không khí tết ùa về. Mẹ quày quả đi chợ rồi lí lúi mãi trong gian bếp đỏ lửa; cha ra vườn rọc lá chuối, ngâm nếp; nội ngắm nhìn cây mai trổ nụ, thân gốc u nần và hoa đan kín, chỉ đợi giao thừa đến là bừng sắc vàng. Anh trai đã lau dọn bàn thờ, đánh bóng bộ bàn ghế đón khách; còn em gái thì phơi những bộ quần áo mới của gia đình. Tôi là người được cha giao cho công việc nhẹ nhàng nhưng tỉ mẩn, đó là chọn thân tre từ nhà ngoại đem về rọc kỹ, chặt từng khúc vừa tầm tay rồi chẻ thành những cọng lạt, đem ngâm nước, dùng để buộc cho từng đòn bánh tét, bánh chưng. Sau nữa, tôi đón lấy những xấp lá từ tay cha để trải lên sân phơi nắng, lật thật đều hai mặt, lá xanh thì thân bánh sẽ xanh rất bắt mắt, ăn cùng dưa món giòn rụm, ngon lành thắm đượm hương vị tết quê nhà.

Chiều cuối năm, lối ngõ vắng hoe, chỉ se se nắng và gió mơn man trên từng bông vạn thọ vàng, cúc vàng, mai vàng, nọc rơm vàng… Khi màu hoàng hoa trải đều khắp lối thì cả nhà tụ họp lại. Chiếc phản gỗ mun đã sắp đều những vật dụng gói bánh. Cha ngồi kia, ông ngồi đó, bà bên ông và mẹ bên cha, trong khi anh em chúng tôi đứng cạnh chờ sai bảo. Trên tấm phản gỗ mun ấy, mọi người vừa gói bánh, vừa thủ thỉ chuyện trò, những câu chuyện của một năm tứ mùa chuyển dịch vui buồn, sướng khổ.

Đêm ba mươi, gia đình tôi ba thế hệ ngồi bên nhau canh nồi bánh tét. Tiếng lép bép của củi lửa, tiếng nước sôi sùng sục trong nồi bánh, tiếng dế râm rỉ gáy chung quanh, tiếng người nhà bên văng vẳng vọng là kỷ niệm không quên. Không thể quên. Rồi cha trân quý đặt lên bàn thờ gia tiên từng đòn bánh; ông tôi áo dài, khăn đóng thắp nén hương đầu tiên đón chào thời khắc của năm mới, cầu sự an lành.

Hai mươi năm rồi ba mươi năm đi qua.

Cây mai vẫn còn và cho hoa đều cành nhưng nhà tôi đã di dời nhiều nơi với các thế hệ tiếp nối. Ông tôi, bà tôi đã mất hai mươi năm và tiếp theo là mẹ tôi. Đêm ba mươi, cha tôi đã già, vẫn ngồi bên cạnh cây mai vàng năm xưa, bên bàn thờ năm xưa, tách trà nóng thơm mùi lài như năm xưa mà thủ thỉ chuyện trò với những người đã khuất; khi tôi im lặng ngồi bên cha mà nhớ những mùa tết đi qua trong đời người. Nhớ những chiều ba mươi, đêm ba mươi đầy hoài niệm ấy. Trên bàn thờ luôn trang trọng cặp bánh chưng và bánh tét nhưng đã vắng bóng những người ruột thịt.

Một năm trôi đi với bao biến cố, nhưng tết vẫn là tết, giống như từng tờ lịch cuối cùng của năm cũ đã rơi xuống cho tờ mới tiếp theo vẹn nguyên. Vệt dài hoài niệm sẽ chắp nối, truyền lửa cho mỗi người tiếp tục hướng tới tương lai.

HUỲNH THẠCH THẢO

Nguồn Phú Yên: http://baophuyen.vn/93/270383/thu-thi-chuyen-tet.html