Thứ trưởng Bộ GDĐT: Sự chuyển mình từ bên trong của GDĐH sau 10 năm đổi mới
Bước tiến quan trọng nhất đó là sự phát triển của đội ngũ GV cả về số lượng, trình độ và năng lực, yếu tố quan trọng nhất quyết định tới chất lượng đào tạo.
LTS: Trong 10 năm qua, từ khi triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW, giáo dục đại học nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả và mức độ tiếp cận của người dân, cùng với những thay đổi căn bản về tư duy, nhận thức và cách vận hành, quản lý bên trong hệ thống.
Sau 10 năm triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đã có một diện mạo mới với những chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả. Những bước tiến trên các bảng xếp hạng quốc tế cho thấy, giáo dục đại học của Việt Nam đã mạnh dạn đặt mình trong sân chơi lớn và sẵn sàng thay đổi, hoàn thiện để hướng tới thực chất và phát triển bền vững thông qua thực hiện tự chủ đại học, nhưng cũng đứng trước những thách thức rất lớn để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.
Để có bức tranh tổng thể về vấn đề này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Sơn – Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phóng viên: Thưa Thứ trưởng, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng như thế nào sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Trong 10 năm qua, từ khi triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW, giáo dục đại học nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng, hiệu quả và mức độ tiếp cận của người dân, cùng với những thay đổi căn bản về tư duy, nhận thức và cách vận hành, quản lý bên trong hệ thống. Những bước tiến của nền kinh tế đất nước trong từng giai đoạn phát triển vừa qua chắc chắn có sự đóng góp quan trọng, thiết yếu của nguồn nhân lực trình độ cao được đào tạo từ hệ thống giáo dục đại học trong nước.
Bước tiến quan trọng nhất đó là sự phát triển của đội ngũ giảng viên cả về số lượng, trình độ và năng lực, yếu tố quan trọng nhất quyết định tới chất lượng đào tạo. Trong giai đoạn 2013-2022, số giảng viên đại học đã tăng tương ứng với quy mô đào tạo, giữ ổn định tỉ lệ trên dưới 25 sinh viên trên một giảng viên. Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ dưới 15% lên trên 32%, trong khi tỉ lệ có trình độ đại học giảm từ 32% xuống còn 7%. Số công bố khoa học trên một giảng viên, tính theo các bài có trong danh mục Scopus tăng gấp 5 lần (từ 0,04 lên 0,2 bài). Năng lực đội ngũ giảng viên về phát triển chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra và đánh giá, bảo đảm chất lượng ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh phát triển đội ngũ giảng viên, các cơ sở giáo dục đại học đã hết sức nỗ lực và thành công trong đổi mới và đa dạng hóa chương trình đào tạo, phương thức đào tạo, cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất, môi trường học tập và nghiên cứu, dịch vụ hỗ trợ người học theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh đã trở lên khá phổ biến, năng lực ngoại ngữ của cả giảng viên và sinh viên có bước tiến lớn so với 10 năm trước đây. Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số đã làm thay đổi căn bản toàn bộ quy trình đào tạo từ tuyển sinh, giảng dạy, tổ chức học tập và hỗ trợ người học. Công tác bảo đảm chất lượng đã trở thành hoạt động thường ngày của mỗi nhà trường, mỗi đơn vị chuyên môn. Số cơ sở giáo dục đại học cũng như số chương trình đào tạo/số ngành đào tạo được kiểm định quốc tế hay có mặt trong các bảng xếp hạng quốc tế ngày càng tăng.
Trên cơ sở các điều kiện bảo đảm chất lượng được tăng cường và công tác tuyển sinh từng bước được đổi mới, trong giai đoạn 2013-2022 quy mô đào tạo đại học đã tăng xấp xỉ 25%, số sinh viên trên một vạn dân tăng từ 186 lên 210. Tỉ lệ thanh niên tới độ tuổi 18 đi học đại học tăng từ 22% lên 40%, tỉ lệ sinh viên đại học trên số người trong độ tuổi 18-22 tăng từ 20% lên 30%, mặc dù còn thấp so với các nước phát triển nhưng đã thể hiện một bước tiến dài. Tỉ trọng quy mô sinh viên đại học khối trường tư thục tăng từ 10% lên trên 20%. Chưa bao giờ thí sinh được tạo thuận lợi và cơ hội lớn như ngày nay trong lựa chọn trường, chọn ngành và chương trình đào tạo phù hợp với sở trường, nguyện vọng, điều kiện của bản thân và gia đình.
Trong bối cảnh mức chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học rất thấp, tỉ trọng chi trên tổng chi phí cho giáo dục đại học giảm mạnh, những kết quả đạt được như đã nói ở trên cho thấy tổng thể hệ thống giáo dục đại học đã hoạt động hiệu quả.
Theo báo cáo gần đây của Ngân hàng thế giới, tỉ suất thu hồi đối với đầu tư giáo dục đại học Việt Nam đứng vào hàng cao so với mức trung bình của thế giới. Số lượng sinh viên nhập học đại học tăng khá trong vài năm gần đây, sau một giai đoạn đi xuống và chạm đáy vào năm 2018, đã cho thấy niềm tin của người học và xã hội về chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học đã được củng cố. Số liệu khảo sát tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp cũng cho thấy giáo dục đại học đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, ngày càng có nhiều bạn trẻ thành công sớm theo con đường khởi nghiệp hoặc làm việc trong môi trường quốc tế chuyên nghiệp.
Phóng viên: Kể từ khi thực hiện Nghị quyết 29, tự chủ đại học trở thành nhu cầu tự thân của các trường giúp giáo dục đại học đã có những chuyển biến lớn dù nguồn lực đầu tư còn thấp. Xin Thứ trưởng nêu minh chứng rõ nét về vấn đề này?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Một năm sau khi Nghị quyết 29 được ban hành, Chính phủ đã có Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đổi với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. Trên cơ sở này, 23 cơ sở giáo dục đại học công lập đã tiên phong thí điểm đổi mới thực hiện cơ chế tự chủ trên cả ba phương diện: tự chủ bộ máy và nhân sự, tự chủ chuyên môn, học thuật và tự chủ tài chính. Bên cạnh những quyền tự chủ về mở ngành, liên kết đào tạo, cơ cấu tổ chức và biên chế, các trường được quyết định mức thu học phí, thu các dịch vụ khác và được quyết định mức chi nội bộ cao hơn quy định hiện hành.
Có thể nói, Nghị quyết số 77/NQ-CP đã tạo ra bước đột phá, tạo động lực và nguồn lực lớn để các trường được giao thí điểm có những thay đổi mạnh mẽ trong giai đoạn đó và tiếp tục bứt phá trong giai đoạn sau này, như các số liệu trong Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị tự chủ đại học năm 2022 đã thể hiện rõ. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học (Luật số 34) được xây dựng và ban hành năm 2018 đã tiếp thu hầu hết những nội dung từ Nghị quyết 77, đó là một minh chứng cho xu thế tất yếu của tự chủ đại học.
Quá trình triển khai tự chủ đại học đã từng bước tạo ra những thay đổi sâu sắc từ nhận thức tới tư duy và hành động của tất cả những người làm giáo dục đại học, từ các cấp lãnh đạo quản lý tới đội ngũ giảng viên, nhân viên và người lao động. Đó là quá trình chuyển đổi từ quản lý tập trung, bao cấp sang quản trị phân cấp, chia sẻ, từ đào tạo theo kế hoạch giao tập trung sang đào tạo định hướng thị trường. Các cơ sở giáo dục đại học được tạo môi trường và động lực để cạnh tranh bình đẳng, minh bạch dựa trên chất lượng, hiệu quả và giá trị mang lại cho người học, cho xã hội. Những khái niệm như quản trị chiến lược, quản trị chia sẻ, văn hóa nhà trường, giá trị cốt lõi, lợi thế cạnh tranh, tự do học thuật, kiểm định chất lượng, KPIs... đã không còn lạ lẫm đối với các trường đại học.
Đến nay, gần 1/3 số cơ sở giáo dục đại học công lập đã tự bảo đảm chi thường xuyên (cũng như tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư), 6/67 trường đại học tư thục có tên trong danh sách 1.000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập cao nhất năm 2022. Chỉ trong giai đoạn 2017 - 2022, số sinh viên đại học tăng 22% (trong khi số sinh viên năm 2017 không tăng đáng kể so với 2013), tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng 10%, số công bố khoa học quốc tế (Scopus) của các cơ sở giáo dục đại học tăng hơn 2,7 lần và đóng góp khoảng 85% tổng số công bố quốc tế của cả nước. Trước năm 2017 hầu như chưa có cơ sở giáo dục đại học nào của Việt Nam được xếp hạng quốc tế, thì từ một vài năm trở lại đây đã có ít nhất 5 cơ sở đào tạo và hàng chục ngành đào tạo thường xuyên có mặt trong các bảng xếp hạng quốc tế có uy tín.
Thực hiện quyền tự chủ được giao và những đổi mới đúng hướng, các cơ sở giáo dục đại học đã có cơ hội phát huy tốt hơn nội lực và huy động tốt hơn các nguồn lực từ bên ngoài. Theo số liệu khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ước tính tổng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước năm 2021 của toàn hệ thống khoảng 38.000 tỉ đồng, tăng xấp xỉ 40% so với năm 2018 và lớn hơn 3 lần số thực chi ngân sách nhà nước năm 2020 cho giáo dục đại học. Tổng chi toàn xã hội (bao gồm cả chi từ ngân sách nhà nước) cho giáo dục đại học chỉ đạt khoảng 0,5% GDP và thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thì có thể nói những kết quả đạt được của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như đã nêu trên đây là rất đáng ghi nhận.
Phóng viên: Bên cạnh những thành quả đạt được thì giáo dục đại học chắc chắn vẫn còn những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đổi mới. Theo Thứ trưởng đâu là những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của những hạn chế này?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Đổi mới luôn là một việc khó, công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng lại càng khó khăn hơn, đặc biệt khi phải thực hiện yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện trong bối cảnh nguồn lực rất hạn hẹp và kỳ vọng của xã hội rất lớn.
Chất lượng giáo dục đại học đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên còn có khoảng cách đáng kể so với các nước phát triển, giữa các trường đại học và giữa các ngành đào tạo. Cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và ở một số vùng, địa phương nói riêng.
Thị trường lao động thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao, nhất là ở một số ngành khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong khi có một tỉ lệ không nhỏ sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng làm việc, không có việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn. Các cơ sở giáo dục đại học đóng góp một tỉ lệ lớn các công bố khoa học quốc tế, tuy nhiên cả số lượng và chất lượng công bố còn thấp so với một số nước trong khu vực, các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chưa có tác động rõ nét, trực tiếp đối với tăng trưởng của nền kinh tế.
Tiềm lực của các cơ sở giáo dục đại học mặc dù đã được tăng cường đáng kể, nhưng nhìn chung tỉ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ còn thấp, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu còn rất thiếu và lạc hậu. Diện tích đất của một số cơ sở giáo dục đại học khi thành lập đã được quy hoạch đúng tiêu chuẩn nhưng tới nay bị thu hẹp chỉ còn một phần trong khi quy mô đào tạo tăng hàng chục lần. Ngay cả một số đại học lớn, trọng điểm nhiều năm hoạt động tại khuôn viên chật hẹp với các công trình xây dựng xuống cấp trong khi các dự án đầu tư mở rộng, nâng cấp kéo dài hàng chục năm chưa hoàn thành. Tỉ lệ sinh viên trên giảng viên cao, cơ sở vật chất phục vụ thí nghiệm, thực hành ít được đầu tư, khả năng đổi mới chương trình, học liệu và phương pháp giảng dạy bị hạn chế, chất lượng đào tạo chậm được cải thiện.
Sau 10 năm, số trường đại học và số sinh viên cả nước đã gia tăng đáng kể, nhưng tỉ lệ đi học đại học còn thấp so với các nước tiên tiến, bên cạnh đó còn có chênh lệch lớn về khả năng tiếp cận giáo dục đại học giữa các khu vực, địa phương.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học còn rất thấp, thiếu những chính sách, cơ chế tài chính hiệu quả. Dù các trường đại học rất nỗ lực trong thúc đẩy các hoạt động dịch vụ và tìm kiếm các nguồn lực khác, nguồn thu của các trường vẫn chủ yếu đến từ học phí. Khác với giáo dục phổ thông, các trường đại học trong nước phải cạnh tranh với các trường đại học nước ngoài cả về đội ngũ giảng viên giỏi và những sinh viên có điều kiện tài chính. Một tỉ lệ không nhỏ giảng viên đi học tiến sĩ ở nước ngoài không quay trở về trường làm việc, hàng trăm nghìn sinh viên đi du học tự túc với tổng chi phí hàng năm gấp hơn 2 lần tổng nguồn thu của tất cả cơ sở giáo dục đại học trong nước.
Trong thời gian qua, việc đẩy mạnh tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập được gắn với tự chủ tài chính và cắt giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, trong khi cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo mới được triển khai ở diện hẹp (chủ yếu là các ngành đào tạo giáo viên). Điều này dẫn tới việc hầu hết các trường đại học sẽ tìm cách tối ưu hóa hoạt động bằng cách mở rộng các ngành, lĩnh vực đào tạo mang lại hiệu quả cao về mặt tài chính. Một số ngành đào tạo then chốt thuộc lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nông lâm và thủy sản... khó thu hút thí sinh, nhất là ở các trình độ sau đại học, dẫn tới nguy cơ thiếu hụt đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Bên cạnh đó, khi các chính sách hỗ trợ người học chưa được triển khai ở phạm vi rộng, chi phí học tập vẫn còn là một rào cản cho nhiều sinh viên, đặc biệt là đối với các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Nguyên nhân lớn thứ hai đó là những bất cập về thể chế. Các cơ sở giáo dục đại học công lập gặp khó khăn khi hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, nhất là giữa các quy định về quản lý viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập với các quy định về quản lý giảng viên và cơ sở giáo dục đại học. Mô hình quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập kém hiệu quả khi có tới 58 cơ quan quản lý trực tiếp (cơ quan chủ quản), bao gồm các tổ chức, cơ quan trung ương, địa phương, doanh nghiệp và các đại học quốc gia, đại học vùng. Thực tế là có sự khác biệt, không thống nhất về phân bổ ngân sách nhà nước, cách thức vận hành và quản lý các cơ sở giáo dục đại học thuộc các cơ quan chủ quản khác nhau. Bên cạnh đó, do đào tạo cao đẳng được tách khỏi hệ thống giáo dục đại học, việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, xây dựng và thực thi hệ thống văn bản pháp luật khó bảo đảm đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.
Phóng viên: Chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là những chủ trương quan trọng trong đổi mới giáo dục đại học. Tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ:“Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học”. Thứ trưởng có đề xuất gì để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho tự chủ đại học?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Như đã phân tích trên đây, điểm nghẽn lớn nhất trong triển khai tự chủ đại học thời gian qua nằm ở chính sách, cơ chế và nguồn lực tài chính, nhất là đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Do vậy, để thực hiện chủ trương chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo chuyển biến căn bản về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trước hết cần có một số chính sách, cơ chế đột phá về tài chính đại học như sau:
Thứ nhất, cải tiến và mở rộng các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người học như tín dụng ưu đãi, học bổng và miễn giảm học phí cho sinh viên, căn cứ đối tượng, điều kiện kinh tế, năng lực học tập và lĩnh vực, ngành học của sinh viên, không phân biệt trường công lập hay tư thục. Như vậy, người dân được mở rộng cơ hội tiếp cận đại học đồng thời các trường đại học có điều kiện mở rộng các chương trình đào tạo chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội, nhất là trong các ngành trọng điểm về khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Thứ hai, đổi mới phương thức đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước dựa trên các chỉ số ưu tiên về các lĩnh vực, ngành và trình độ đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, ưu tiên trọng tâm theo vùng, địa phương và các chỉ số cốt lõi về năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động (KPIs) của cơ sở giáo dục đại học. Như vậy, chi ngân sách nhà nước vừa bảo đảm tính định hướng, dẫn dắt đồng thời bảo đảm nâng cao hiệu quả dựa trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng đã quy định tại Luật Giáo dục đại học.
Thứ ba, đẩy mạnh triển khai đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sư phạm, y dược và một số ngành, lĩnh vực trọng điểm khác. Đổi mới cơ chế đặt hàng đào tạo gắn với kết quả đầu ra, theo đó cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp, tổ chức là bên đặt hàng sẽ chi trả kinh phí đào tạo dưới dạng tài trợ cho cơ sở giáo dục đại học căn cứ số sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng (và có thể cả mức lương của người được tuyển), thay vì ký hợp đồng hay thỏa thuận theo đầu vào và cam kết đầu ra. Như vậy, cơ chế đặt hàng sẽ được đơn giản hóa về quy trình, thủ tục và loại bỏ rủi ro cho bên đặt hàng, đồng thời thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học cạnh tranh bằng chất lượng đào tạo, thành công của sinh viên tốt nghiệp.
Thứ tư, cần có lộ trình tăng chi ngân sách nhà nước để đạt mức tương đương với các nước có hệ thống giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và thế giới, tập trung đầu tư nâng cấp các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm quốc gia ngang tầm khu vực và làm nòng cốt dẫn dắt phát triển cả hệ thống giáo dục đại học.
Bên cạnh đề xuất đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng đề án để triển khai mô hình giáo dục đại học số (digital higher education), coi đây là một đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu tăng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Giáo dục đại học số được thiết kế như một mạng lưới chia sẻ tài nguyên số và cộng tác cung cấp dịch vụ chung giữa các cơ sở giáo dục đại học. Tất cả các trường đại học, tất cả giảng viên có thể tham gia sử dụng chung một nền tảng để cùng phát triển các khóa học, các chương trình đào tạo, để cùng sử dụng, cùng chia sẻ lợi ích. Mỗi trường đại học, mỗi giảng viên sẽ tập trung phát triển những khóa học mà mình có lợi thế vượt trội, như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Một khóa học không chỉ cung cấp cho sinh viên của một khoa, một trường, mà có thể cho sinh viên toàn quốc, thậm chí cho cả sinh viên quốc tế. Đó chính là đột phá về quy mô và hiệu quả đào tạo.
Trong giáo dục đại học số, sinh viên của một trường đại học có thể học một chương trình do nhiều trường cùng hợp tác cung cấp, được chọn học khóa học phù hợp nhất với giảng viên giỏi nhất, được chọn phòng thí nghiệm ảo tốt nhất, được chọn học chung với sinh viên các trường khác, kể cả sinh viên quốc tế. Mô hình đào tạo theo tín chỉ không còn dừng ở phạm một trường đại học, mà đã được mở rộng ra phạm vi toàn hệ thống, phạm vi toàn cầu. Đó chính là đột phá về chất lượng đào tạo và tiếp cận đại học.
Phóng viên: Nhìn lại 10 năm giáo dục đại học thực hiện Nghị quyết 29, theo Thứ trưởng, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì cho chặng đường đổi mới tiếp theo để tạo bước chuyển mạnh mẽ với giáo dục đại học nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, yêu cầu của nền kinh tế tri thức, chuyển số và chuyển đổi xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố cạnh tranh cốt lõi giữa các quốc gia. Giáo dục đại học đóng vai trò then chốt trong thực hiện đột phá chiến lược về nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Để góp phần thực hiện mục tiêu trở thành một nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành một nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, hệ thống giáo dục đại học nước ta còn rất nhiều việc phải làm khi khoảng cách so với các nước tiên tiến còn rất xa. Những kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong giai đoạn 10 năm qua theo Nghị quyết 29 sẽ là những bài học quý báu cho phát triển giáo dục đại học trong chặng đường tới.
Bài học quan trọng nhất đó là phải quán triệt sâu sắc, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, trước hết là những nội dung của Nghị quyết 29 và gần đây là những nội dung trong văn kiện Đại hội XIII.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, thống nhất quan điểm, nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục đại học, bản chất của tự chủ đại học và đầu tư cho phát triển giáo dục đại học. Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước, mang lại hiệu quả cao, lợi ích lớn và lâu dài cho người học, gia đình và toàn xã hội, vì vậy phải là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng và dẫn dắt.
Thứ hai, đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục đại học nói riêng là một sự nghiệp lớn và khó, có tác động mạnh mẽ và lâu dài tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Vì vậy cần phải xác định tầm nhìn dài hạn, quyết tâm và nỗ lực cao, kiên trì và kiên định, cần lộ trình thận trọng và nguồn lực tương xứng, cần mạnh dạn thí điểm những chính sách, cơ chế mới ở phạm vi phù hợp (như thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP năm 2014 của Chính phủ đối với 23 cơ sở giáo dục đại học) trước khi hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và triển khai rộng rãi (như xây dựng và triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học).
Thứ ba, phải đặt người học và người thầy làm trung tâm, vừa là mục tiêu, chủ thể vừa là động lực của quá trình đổi mới. Mọi sự đổi mới, từ môi trường học tập, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, phương thức tuyển sinh, đào tạo tới kiểm tra, đánh giá phải lấy người học làm chủ thể và hướng tới lợi ích lớn hơn cho người học; tiến bộ và thành công của người học là các tiêu chí chủ yếu đánh giá chất lượng và hiệu quả của giáo dục đại học. Trong đổi mới giáo dục thì việc khó nhất và quan trọng nhất chính là đổi mới người thầy, vì suy cho cùng, môi trường học tập hay chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy… chủ yếu được quyết định bởi những người thầy.
Thứ tư, đổi mới giáo dục đại học phải bảo đảm sự phát triển bền vững, gia tăng quy mô phải dựa trên chú trọng chất lượng và hiệu quả, cạnh tranh phải dựa trên năng lực và thành tích thực chất, tăng cường xã hội hóa phải gắn với mở rộng cơ hội tiếp cận đại học cho người dân, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trước hết phải dựa trên chuẩn hóa, hiện đại hóa và hợp tác hiệu quả trong nước. Thành công của đổi mới cả hệ thống giáo dục đại học phải dựa trên thành công của đổi mới căn bản và toàn diện bên trong mỗi cơ sở giáo dục đại học, với nền tảng là cơ chế tự chủ đại học và cốt lõi là hệ thống quản trị chia sẻ, dân chủ và minh bạch.
Cuối cùng, phải chú trọng hơn nữa công tác truyền thông chính sách, nâng cao sự hiểu biết, tạo sự đồng thuận, chia sẻ và ủng hộ, tăng cường niềm tin của đội ngũ nhà giáo, người dân và toàn xã hội đối với những quan điểm, chủ trương, chính sách và kết quả đổi mới giáo dục đại học. Giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu và là sự nghiệp của toàn xã hội, đổi mới giáo dục nói riêng và giáo dục đại học nói chung không thể thành công nếu không có sự chung tay, góp sức của toàn xã hội cả về nguồn lực vật chất và tinh thần.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn.