Thủ tướng công nhận Bia Sùng Chỉ ở Hà Tĩnh là bảo vật quốc gia
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định công nhận 27 bảo vật quốc gia, trong đó có Bia Sùng Chỉ (Sùng chỉ bi ký) ở Hà Tĩnh.
Bia Sùng Chỉ được dựng vào năm 1696 là hiện vật cổ quý hiếm, độc bản gắn với danh nhân Hà Tông Mục. Hiện trạng bia còn tương đối nguyên vẹn, chỉ bị phong hóa một ít về phía Đông. (Trong ảnh: Từ trái sang là 4 mặt: Nam, Bắc, Đông, Tây của bia Sùng Chỉ hiện nay)
Theo ông Hà Văn Sỹ - người đại diện cho dòng họ Hà ở xã Tùng Lộc (Can Lộc), chủ sở hữu hợp pháp hiện vật bia Sùng Chỉ, căn cứ vào nội dung văn bia, gia phả họ Hà - Tùng Lộc và một số tài liệu lịch sử, bia được dựng vào năm Chính Hòa thứ 17 (1696) theo đề nghị của quan viên chức sắc và nhân dân 4 thôn (Mông Tiết, Trung Hậu, Vinh Phúc, Hựu Phúc), thuộc xã Tỉnh Thạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang nhằm ghi nhận công lao sự nghiệp của Hà Tông Mục đối với đất nước và quê hương.
“Trong lịch sử ít có người được nhân dân tôn thờ khi còn sống như Tiến sĩ Hà Tông Mục. Đây là việc làm có ý nghĩa nhân văn khi ông vừa tròn 43 tuổi”, ông Hà Văn Sỹ tự hào cho hay.
Bia được làm bằng chất liệu đá, 4 mặt có hình thức giống nhau, khắc chữ Hán có nội dung khác nhau
Sở VHTT&DL Hà Tĩnh cho biết, trước khi có văn bản tham mưu UBND tỉnh đề nghị Bộ VHTT&DL xem xét trình Thủ tướng công nhận, Hội đồng Thẩm định hiện vật bia Sùng Chỉ đã tổ chức họp thẩm định, đánh giá hiện vật và hồ sơ hiện vật để thống nhất đề nghị công nhận bia Sùng Chỉ là bảo vật quốc gia dựa trên 4 lý do: Hiện vật gốc độc bản, Hình thức độc đáo, Có giá trị lịch sử văn hóa, Liên quan đến danh nhân lịch sử tiêu biểu thời Hậu Lê.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ VHTT&DL, chủ tịch UBND các cấp nơi có bảo vật quốc gia; các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; người đứng đầu ngành, tổ chức được giao quản lý bảo vật quốc gia được công nhận thực hiện việc quản lý đối với bảo vật quốc gia theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Các hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia (đợt 8, đợt xét duyệt năm 2019) gồm:
Sưu tập nha chương (Niên đại: Văn hóa Phùng Nguyên, khoảng 3.500 năm cách ngày nay; hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ);
Trống đồng Quảng Chính (Niên đại: Văn hóa Đông Sơn, khoảng Thế kỷ III-II trước Công nguyên; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh);
Trống đồng Trà Lộc (Niên đại: Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.500 năm; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, thuộc Trung tâm quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị);
Linga-Yoni gỗ Nhơn Thành (Niên đại: Văn hóa Óc Eo, Thế kỷ V; hiện lưu giữ tại Bảo tàng thành phố Cần Thơ);
Tượng Phật gỗ Giồng Xoài (Niên đại: Văn hóa Óc Eo, Thế kỷ IV-VI; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh An Giang);
Tượng Phật đá Khánh Bình (Niên đại: Văn hóa Óc Eo, Thế kỷ VI-VII; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh An Giang);
Tượng sư tử đá chùa Hương Lãng (Niên đại: cuối Thế kỷ XI-đầu Thế kỷ XII; hiện lưu giữ tại chùa Hương Lãng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên);
Tượng đôi sư tử đá đền-chùa Bà Tấm (Niên đại: Thế kỷ XII; hiện lưu giữ tại đền-chùa Bà Tấm, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội);
Hai tượng Hộ pháp chùa Nhạn Sơn (Niên đại: Thế kỷ XII-XIII; hiện lưu giữ tại chùa Nhạn Sơn, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định);
Tượng Mẫu Âu Cơ (Niên đại: Thế kỷ XIX, hiện thờ tại Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ);
Chuông Nhật Tảo (Niên đại: Thế kỷ X; hiện lưu giữ tại đình Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
Bia “Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh” (Niên đại: Thời Lý-Trần; hiện lưu giữ tại chùa Cảnh Lâm, xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên);
Bia Ma nhai Ngự chế của Vua Lê Thái Tổ (Niên đại: Năm 1431; trên vách núi Phia Tém, xã Bình Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng);
Đại Việt Lam Sơn Kính Lăng bi-Bia Lăng Vua Lê Túc Tông (Niên đại: Thế kỷ XVI; hiện lưu giữ tại Di tích lịch sử Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa);
Bia “Sùng chỉ bi ký” (Niên đại: Năm 1696; hiện lưu giữ tại đền thờ Hà Tông Mục, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh);
Bia “Ngự kiến Thiên Mụ tự” (Niên đại: Năm 1715; hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, thuộc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế);
12 Bia tiến sỹ Văn Miếu Bắc Ninh (Niên đại: Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái - 1889; hiện lưu giữ tại di tích Văn Miếu Bắc Ninh, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh);
Bộ chóp tháp Champa Linh Thái (Niên đại: Thế kỷ XII-XIII; hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên - Huế);
Thống đồng thời Trần (Niên đại: Thế kỷ XIII-XIV; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh); Mâm bồng gốm men vẽ nhiều màu (Niên đại: Thời Lê sơ-Thế kỷ XV; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh);
Khám thờ gỗ sơn son thếp vàng (Niên đại: Thế kỷ XVI; hiện lưu giữ tại Di tích đền - chùa Bà Tấm, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội);
Ngai thờ gỗ sơn son thếp vàng (Niên đại: Thế kỷ XVII; hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Thái Bình);
Cửa võng đình Diềm (Niên đại: Thế kỷ XVII; hiện lưu giữ tại đình Diềm, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh);
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng (Niên đại: Thế kỷ XVII; hiện thờ tại đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình);
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành (Niên đại: Thế kỷ XVII; hiện thờ tại đền thờ Vua Lê Đại Hành, Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình);
Long đao (Niên đại: Thế kỷ XVII - XVIII; hiện lưu giữ tại Khu di tích tưởng niệm Vương triều Mạc, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng);
Ấn “Lương Tài Hầu chi ấn” (Niên đại: Thế kỷ XIX; hiện lưu giữ tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh).