Thúc đẩy công nghiệp môi trường: Hoàn thiện chính sách, tạo chuỗi liên kết vùng
EPR mở ra hướng đi mới cho công nghiệp môi trường Việt Nam, song vẫn cần đồng bộ công nghệ, chính sách minh bạch và phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan.
Trong khuôn khổ Tọa đàm “Thúc đẩy ngành công nghiệp môi trường Việt Nam– Giải bài toán công nghệ xử lý, tái chế chất thải rắn” do Báo Công Thương tổ chức vào ngày 22/7 vừa qua, ông Nguyễn Thành Yên – Phó Trưởng phòng Chính sách pháp chế, Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chia sẻ nhiều thông tin quan trọng liên quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các định hướng hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi và phát triển lĩnh vực này.
Hoàn thiện chính sách cho cơ chế EPR
-Sau hơn một năm triển khai quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), tiến độ thu hồi, tái chế các nhóm sản phẩm bắt buộc hiện ra sao? Nhóm sản phẩm nào đang gặp khó khăn nhất, thưa ông?
Ông Nguyễn Thành Yên: Theo quy định hiện hành, có bốn nhóm sản phẩm bắt buộc thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) gồm: bao bì, ắc quy, dầu nhớt và săm lốp, đã được triển khai từ năm 2024. Riêng nhóm sản phẩm điện, điện tử sẽ bắt đầu áp dụng EPR từ năm 2025, nhưng thời điểm thực hiện chính thức là năm 2026, theo nguyên tắc “doanh nghiệp sản xuất năm trước, thực hiện nghĩa vụ vào năm sau” được quy định tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Thông tư số 05/2022/TT-BTNMT.

Ông Nguyễn Thành Yên chia sẻ với Báo Công Thương
Trong hơn một năm triển khai, các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu thuộc diện áp dụng EPR đã chủ động tiếp cận, tìm hiểu và thực hiện đăng ký, kê khai thông tin trên hệ thống quản lý điện tử do Bộ xây dựng. Đa số doanh nghiệp đã tích cực tham gia và lựa chọn một trong hai hình thức thực hiện nghĩa vụ: (1) tự tổ chức tái chế tại cơ sở hoặc thông qua hợp đồng với các đơn vị tái chế; (2) ủy quyền cho các tổ chức đại diện thực hiện trách nhiệm tái chế (gọi tắt là PRO – Producer Responsibility Organization). Các tổ chức PRO đã bắt đầu hình thành hệ thống thu gom, xử lý và bước đầu mang lại hiệu quả rõ nét.
Trong trường hợp không tổ chức tái chế, doanh nghiệp có thể nộp tiền vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho hoạt động tái chế. Qua quá trình theo dõi, cơ quan quản lý đánh giá rằng, dù còn trong giai đoạn đầu, việc triển khai EPR đã đạt được những kết quả tích cực, thể hiện qua sự chủ động của doanh nghiệp và bước tiến về hạ tầng thu gom.
Hiện nay, Bộ đang xây dựng dự thảo Nghị định riêng về EPR nhằm hoàn thiện khung pháp lý, bổ sung quy định chi tiết, rõ ràng hơn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình triển khai. Kỳ vọng trong thời gian tới, việc thực hiện EPR sẽ ngày càng hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường theo hướng bền vững.
Đảm bảo minh bạch, hiệu quả trong giám sát thu hồi, tái chế
-Bộ đã có những giải pháp nào nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả trong giám sát việc thu hồi, tái chế theo cơ chế EPR?
Ông Nguyễn Thành Yên: Như các bạn đã biết, trước đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường – nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đã ban hành Thông tư số 02, bổ sung Thông tư số 07/2022/TT-BTNMT, quy định cụ thể về biểu mẫu đăng ký, kê khai, báo cáo đối với các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR).

Hiện nhựa tái chế Duy Tân là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực công nghiệp tái chế tại Việt Nam
Bên cạnh đó, Bộ đã xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin điện tử phục vụ kê khai EPR. Toàn bộ quy trình kê khai hiện được thực hiện trực tuyến, không sử dụng hồ sơ giấy như trước. Việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp nâng cao tính minh bạch, thuận tiện cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý, đồng thời cho phép giám sát, thống kê, phát hiện sai phạm một cách kịp thời và hiệu quả hơn so với phương thức truyền thống.
Về công tác giám sát, kiểm tra, Bộ vẫn duy trì hệ thống thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ EPR, tương tự như đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường khác. Mặc dù chức năng thanh tra chuyên ngành môi trường đã được chuyển về Thanh tra Chính phủ, song Bộ vẫn có các cơ chế kiểm tra phù hợp để đảm bảo việc thực hiện đúng quy định pháp luật.
Định hướng thúc đẩy công nghệ và phối hợp liên ngành
-Thưa ông, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ có định hướng gì để thúc đẩy công nghệ xử lý chất thải khó tái chế và cải thiện phối hợp liên ngành?
Ông Nguyễn Thành Yên: Hiện nay, đối với một số sản phẩm như pin sạc nhiều lần hoặc bao bì đa lớp (như bao bì xi măng), hạ tầng tái chế trong nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Trước thực tế đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng định hướng khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ xử lý cho các nhóm sản phẩm khó tái chế.
Cụ thể, sau khi Nghị định riêng về EPR được ban hành, Bộ sẽ đề xuất cơ chế sử dụng nguồn kinh phí đóng góp từ các nhà sản xuất, nhập khẩu để hỗ trợ các tổ chức, đơn vị nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ tái chế phù hợp. Đồng thời, Bộ cũng sẽ thúc đẩy việc hình thành thêm nhiều tổ chức PRO – đơn vị trung gian có vai trò kết nối giữa nhà sản xuất và các cơ sở tái chế, nhằm sớm triển khai hiệu quả quy trình tái chế đối với những sản phẩm có tính chất phức tạp.

Các đối tác quốc tế thăm quan mô hình tái chế tại Công ty CP Nhựa tái chế Duy Tân. Ảnh: Đại sứ quán Australia cung cấp
Trường hợp sau một thời gian thực hiện mà không đạt hiệu quả như kỳ vọng, Bộ sẽ nghiên cứu phương án điều chỉnh: chuyển một số sản phẩm nhất định từ danh mục tái chế sang danh mục bắt buộc xử lý, bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện công nghệ hiện hành.
Đồng thời, Bộ sẽ sử dụng nguồn kinh phí đóng góp từ EPR để hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ xử lý các loại bao bì khó tái chế, thúc đẩy hình thành các tổ chức PRO kết nối giữa nhà sản xuất và đơn vị tái chế.
Trong trường hợp công nghệ không khả thi sau thời gian dài, có thể điều chỉnh danh mục sản phẩm từ tái chế sang xử lý. Về phối hợp liên ngành, hiện đã cơ bản thống nhất sau khi chức năng quản lý chất thải được giao lại cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Các vướng mắc trước đây giữa các bộ đã được tháo gỡ, tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành.
-Bộ đã có định hướng gì để hỗ trợ các tỉnh ven biển và vùng kinh tế trọng điểm theo Nghị quyết 57 trong việc xây dựng cơ sở tái chế hiện đại gắn với logistics xanh? Theo ông, đâu là khó khăn lớn nhất hiện nay trong phối hợp liên ngành?
Ông Nguyễn Thành Yên: Trước khi có Nghị quyết số 57-NQ/TW về xây dựng và phát triển vùng kinh tế trọng điểm, cách đây khoảng 20 năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định quy hoạch các trung tâm xử lý chất thải cho từng vùng kinh tế trọng điểm. Các quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm trong những năm sau đó đều bao gồm định hướng hình thành các trung tâm xử lý và tái chế chất thải.
Gần đây, trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia và quá trình xây dựng chính sách thực hiện Nghị quyết 57, Bộ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất phát triển các cơ sở tái chế hiện đại, gắn với chuỗi logistics xanh, nhất là tại các tỉnh ven biển và khu vực kinh tế trọng điểm.
Tuy nhiên, theo quan sát thực tiễn trong hai thập kỷ qua, ngành tái chế chất thải bản chất là một ngành kinh tế, nên phải vận hành theo cơ chế thị trường, tức là phụ thuộc vào quy luật cung cầu.
Ở các khu vực ven biển và vùng kinh tế trọng điểm, nơi phát sinh khối lượng chất thải lớn, điều kiện tự nhiên và hạ tầng thuận lợi, các doanh nghiệp đã chủ động tham gia đầu tư mà không cần sự can thiệp sâu từ Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay nên tập trung vào điều tiết, hỗ trợ chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi chứ không chỉ đạo trực tiếp việc đầu tư hay vận hành.

Lò đốt rác tại xã Lại Sơn (cũ) - tỉnh Kiên Giang.
Trên thế giới, xu hướng phát triển ngành tái chế theo hướng "tiếp cận xanh" ngày càng rõ nét. Việt Nam cũng đang xây dựng các chính sách theo hướng này, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trên thực tế, ngành tái chế, đặc biệt là tái chế chất thải nguy hại, tại Việt Nam trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ, thậm chí tại một số địa phương, lượng chất thải phát sinh không đủ đáp ứng công suất các nhà máy xử lý.
Bên cạnh đó, cơ chế EPR sẽ trở thành một kênh tài chính quan trọng, giúp huy động nguồn lực từ các nhà sản xuất, nhập khẩu để hỗ trợ trực tiếp cho các cơ sở tái chế thông qua Bộ hoặc các tổ chức trung gian. Đây cũng là một công cụ thúc đẩy mô hình tăng trưởng xanh.
Về cơ chế phối hợp liên ngành, trước đây từng tồn tại sự chồng chéo do chức năng quản lý chất thải được phân tán: Bộ Xây dựng phụ trách chất thải sinh hoạt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách chất thải nông thôn, Bộ Công Thương quản lý chất thải từ công nghiệp, Bộ Y tế phụ trách chất thải y tế.
-Theo ông, các cơ quan quản lý, các bên liên quan và cộng đồng doanh nghiệp cần có bước đi như thế nào nhằm thúc đẩy hiệu quả thực thi EPR và phát triển ngành công nghiệp môi trường?
Ông Nguyễn Thành Yên: Các chính sách ưu đãi về thuế đối với lĩnh vực môi trường thực tế đã được quy định từ lâu. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi thông qua Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và các quỹ cấp địa phương, hiện đang cho vay các dự án môi trường với lãi suất ưu đãi.

Công nghệ đốt rác tại Na Rì, Bắc Kạn. Ảnh: Đình Trọng
Đối với tín dụng xanh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang nghiên cứu, tham mưu Chính phủ hoàn thiện chính sách hỗ trợ. Việc doanh nghiệp tham gia thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) cũng là một lợi thế, giúp gia tăng điểm số trong quá trình tiếp cận tín dụng xanh.
Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu và đơn vị tái chế sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi hơn, góp phần thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn và ngành công nghiệp môi trường một cách bền vững.