Thúc đẩy kết nối cung - cầu sản phẩm kinh tế số
Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, việc kết nối hiệu quả giữa cung và cầu các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số, ứng dụng những giải pháp phù hợp với nhu cầu thực tiễn của từng ngành, từng địa phương đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Đây không chỉ là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sản xuất, kinh doanh, mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh và đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số tại các địa phương trong cả nước.
Công nghệ số phải giải được “bài toán” thực tiễn
Thực tế cho thấy, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số trong những năm qua đã tạo ra những thay đổi sâu rộng đối với hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, phương thức sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như hành vi, thói quen của người dân. Từ đó góp phần hình thành các mô hình kinh tế mới, gia tăng giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương.
Tại Hội thảo “Kết nối cung - cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sản xuất trong nước phục vụ phát triển kinh tế số tại địa phương” tổ chức tại TP. Đà Nẵng vừa qua, bà Đinh Thị Lan Hương, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam” giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế số tại địa phương. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chỉ thực sự có ý nghĩa khi được ứng dụng vào thực tiễn, giải quyết những “bài toán” cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp và người dân, thay vì dừng lại ở nghiên cứu hay thử nghiệm.
Tuy nhiên, một thực tế đặt ra là không ít sản phẩm, giải pháp công nghệ số vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi, chưa “gặp nhau” hiệu quả giữa bên cung và bên cầu. Nguyên nhân đến từ việc nhu cầu thực tiễn của địa phương, doanh nghiệp chưa được chuyển hóa thành các “đề bài” cụ thể cho doanh nghiệp công nghệ. Ở chiều ngược lại, doanh nghiệp công nghệ cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận, hiểu rõ nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực.
Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy kết nối cung - cầu công nghệ số được xem là giải pháp trọng tâm. Đặc biệt, các lĩnh vực như nông nghiệp, du lịch thông minh, logistics, thương mại, dịch vụ số đang trở thành động lực chủ chốt của nền kinh tế số, có nhu cầu lớn về các giải pháp công nghệ nhằm tối ưu hóa quản lý, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả vận hành và trải nghiệm của người dùng.

Đà Nẵng đã và đang thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong các lĩnh vực mũi nhọn
Bài học kinh nghiệm từ Đà Nẵng
Trong bối cảnh mới, Đà Nẵng luôn xác định đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số là trụ cột phát triển. Thành phố coi việc thúc đẩy ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam - Make in Da Nang” không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là cơ hội hình thành hệ sinh thái công nghệ số bền vững, gắn chặt với nhu cầu thực tiễn của chính quyền, doanh nghiệp và người dân.
Trong chuyển đổi số các ngành kinh tế chủ lực, Đà Nẵng đặt mục tiêu phát triển mạnh du lịch số, hướng tới cá nhân hóa trải nghiệm du lịch, ứng dụng các giải pháp không giấy tờ, tour ảo, thanh toán xuyên biên giới. Với mục tiêu thu hút khoảng 15 triệu lượt khách du lịch vào năm 2030, thành phố cần các giải pháp công nghệ số đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về trải nghiệm và dịch vụ thông minh.
Bên cạnh đó, thành phố cũng triển khai cơ chế sandbox cho phép thử nghiệm các công nghệ mới trong phạm vi kiểm soát, đồng thời thí điểm các mô hình mới như Fintech, tài sản số. Điều này, đặt ra yêu cầu về các công cụ giám sát hiện đại, bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhưng không cản trở đổi mới sáng tạo.
Một trong những định hướng lớn của Đà Nẵng là xây dựng sàn dữ liệu, hướng tới phát triển kinh tế dữ liệu. Thành phố nghiên cứu ứng dụng công nghệ blockchain để định danh, bảo vệ quyền sở hữu dữ liệu và từng bước thương mại hóa dữ liệu. Trong lĩnh vực logistics, khi kết nối Khu thương mại tự do Đà Nẵng với Cảng Liên Chiểu, yêu cầu tối ưu hóa luồng hàng và giảm chi phí vận tải trở nên cấp thiết. Thành phố dự kiến triển khai Bản sao số (Digital Twin) cho hệ thống cảng biển và logistics, ứng dụng dữ liệu thời gian thực và trí tuệ nhân tạo để tối ưu vận hành, hướng tới mục tiêu giảm khoảng 20% chi phí logistics…
Ông Trần Ngọc Thạch, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP. Đà Nẵng cho biết, để kinh tế số phát triển thực chất, bài toán quan trọng hiện nay là kết nối hiệu quả giữa “cung” và “cầu” công nghệ số. Đó là sự kết nối giữa nhu cầu thực tiễn của địa phương, doanh nghiệp với năng lực cung ứng giải pháp, sản phẩm của doanh nghiệp công nghệ số trong nước.
Ở góc độ cộng đồng doanh nghiệp, đại diện VCCI miền Trung - Tây Nguyên cho rằng, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp nhiều khó khăn về vốn, nhân sự và kinh nghiệm triển khai chuyển đổi số. Bởi vậy, các cơ quan quản lý cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ theo hướng đơn giản, dễ tiếp cận, tập trung vào hỗ trợ quản trị số và ứng dụng dữ liệu trong điều hành; đồng thời sớm xây dựng bộ tiêu chí, lộ trình chuyển đổi số mẫu theo từng nhóm doanh nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp cần xác định chuyển đổi số là khoản đầu tư cho năng lực quản trị dài hạn. Việc triển khai nên bắt đầu từ hoàn thiện quản trị nội bộ, dữ liệu và quy trình, sau đó mở rộng sang các hoạt động kinh doanh số. Song song đó, doanh nghiệp cần chủ động tham gia đào tạo, nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng dụng công nghệ, qua đó khai thác hiệu quả các giải pháp công nghệ số trong phát triển bền vững.
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/thuc-day-ket-noi-cung-cau-san-pham-kinh-te-so-175918.html












