Thúc đẩy nuôi biển vươn ra xa bờ

Mặc dù được đánh giá là ngành kinh tế của tương lai, tuy nhiên hành trình phát triển nuôi biển theo hướng hiện đại và quy mô công nghiệp, vươn ra xa bờ ở nước ta vẫn còn nhiều lực cản cần tháo gỡ.

Những năm gần đây, thực hiện định hướng của Đảng và Chính phủ về phát triển kinh tế biển bền vững, nuôi biển đang nổi lên như một lĩnh vực kinh tế quan trọng của ngành thủy sản. Lĩnh vực này không chỉ đóng góp vào an ninh lương thực, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho người dân ven biển, mà còn là hướng đi quan trọng để ngư dân chuyển đổi nghề, giảm phụ thuộc vào đánh bắt truyền thống - vốn ngày càng rủi ro và gây suy giảm tài nguyên biển.

Mặc dù được đánh giá là ngành kinh tế của tương lai, tuy nhiên hành trình phát triển nuôi biển theo hướng hiện đại và quy mô công nghiệp, vươn ra xa bờ ở nước ta vẫn còn nhiều lực cản cần tháo gỡ.

Việt Nam sở hữu hơn 1 triệu km2 vùng biển, gấp ba lần diện tích đất liền và bờ biển dài hơn 3.260 cây số. Trong khi đại dương chiếm 71% bề mặt Trái Đất. Đó là lý do Liên Hiệp Quốc tuyên bố thế kỷ XXI là “thế kỷ của biển” và đặt nuôi biển công nghiệp vào vị trí chiến lược: “cánh đồng cuối cùng” của nhân loại.

Một cơ sở nuôi biển hiện đại ở Quảng Ninh

Một cơ sở nuôi biển hiện đại ở Quảng Ninh

Tại Việt Nam những năm gần đây đã quan tâm xây dựng hệ thống thể chế để phát triển bền vững ngành nghề nuôi biển: Luật Thủy sản sửa đổi 2017 đã đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc chuyển từ “Nghề cá Nhân dân” sang “Nghề cá Công nghiệp Bền vững”; Quyết định 339/năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu giảm khai thác xuống 2,8 triệu tấn và đưa sản lượng nuôi trồng lên 7,0 triệu tấn vào 2030. Đồng thời, Quy hoạch không gian biển quốc gia (2021-2030, tầm nhìn 2050) đã cung cấp khung tổng thể để phát triển kinh tế biển bền vững.

PGS TS Nguyễn Hữu Dũng, chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho rằng: “Quyết định của Thủ tướng chính phủ về Đề án Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra lộ trình với mục tiêu cụ thể và giải pháp cụ thể để các địa phương thực hiện. Điều đó là điều rất quan trọng, chúng ta muốn sản xuất thì phải chú trọng đế môi trường và hệ sinh thái và tất cả các yếu tố tác động đến vật nuôi".

Nhiều tỉnh, thành ven biển nước ta có điều kiện thuận lợi về địa hình, độ sâu và dòng chảy thích hợp, kín gió nhờ nhiều đảo và bán đảo che chắn, rất thuận lợi để phát triển nuôi biển. Tuy nhiên, hiện trạng cho thấy nuôi biển còn manh mún, tập trung ở ven bờ và gần bờ. Mật độ nuôi tại các vùng kín ven bờ quá cao có thể dẫn đến phá vỡ cân bằng sinh thái; tỉ lệ nuôi quá dày dẫn đến dịch bệnh và ô nhiễm.

Theo thống kê hiện nay cả nước có hơn có 6.500 cơ sở nuôi ven bờ và chỉ 27 cơ sở nuôi xa bờ. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển nuôi biển xa bờ - nơi môi trường thông thoáng, ít xung đột - vẫn chưa được khai thác.

Ông Nguyễn Bá Ngọc, Giám đốc Công ty Cổ phần Mực nhảy Biển Đông, tỉnh Khánh Hòa cho biết, quá trình giao mặt nước hiện nay còn chậm và thiếu ổn định là lý do chính khiến doanh nghiệp chưa thể yên tâm đầu tư. Trong khi đầu tư cho nuôi biển xa bờ đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn; lồng bè phải đáp ứng được cấp thiên tai cao, cùng với nhân lực, logistic và vận hành phức tạp.

“Khu vực đang quy hoạch để nuôi biển hở đều là những khu vực không được che chắn bởi những ngọn núi hay vùng vịnh mà nó phải đối diện trực tiếp với sóng gió. Đó là khó khăn nhất đối với những người nuôi biển hở. Bên cạnh đó, một rào cản khác đó là, nghị định cấp mặt nước cho doanh nghiệp và người dân nuôi trồng thủy sẩn tuy đã ra đời nhưng hiện tại chưa được tiế hành nhanh chóng" - ông Ngọc chia sẻ.

Nuôi biển là hướng đi triển vọng, mang lại sinh kế bền vững cho ngư dân

Nuôi biển là hướng đi triển vọng, mang lại sinh kế bền vững cho ngư dân

Tình hình khí hậu cực đoan thời gian gần đây đã tác động mạnh đến ngành nuôi biển. Tại Quảng Ninh, hậu quả để lại sau bão số 3 năm 2024 vẫn còn hiện hữu. Bà Phạm Thị Thu Hiền, Chi hội trưởng Chi hội Nuôi biển Vân Đồn, cho biết chỉ sau một đêm, hoạt động nuôi biển của địa phương gần như bị “xóa sổ”, buộc bà con phải làm lại từ đầu. Bên cạnh đó, dù người dân có hàng chục năm kinh nghiệm nuôi biển, nhưng thực tế cho thấy nghề vẫn thiếu kiến thức chuẩn, thiếu khoa học - công nghệ, thiếu liên kết chuỗi.

“Hiện nay chúng ta nuôi quá manh mún, dẫn đên câu chuyện thương mại xây dựng chuỗi liên kết rất khó khăn, không đủ sản lượng để cung ứng. Đối với cá song bây giờ đặt hàng bà con cung ứng một ngày một tấn, duy trì ổn định trong một năm rất khó" - bà Hiền nhấn mạnh.

Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận định, hiện nay chính là thời điểm quan trọng để chuyển dịch mạnh sang nuôi biển bền vững, nhất là khi ngành nghề khai thác thủy sản đang được yêu cầu giảm dần.

Ông Trần Đình Luân nhấn mạnh, để phát triển nuôi biển đúng hướng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và hiệp hội nghề nghiệp.

Theo ông Luân: "Ngoài cơ quan quản lý nhà nước thì các doanh nghiệp, Hiệp hội nghề nghiệp phải có tiếng nói mạnh hơn nữa, giúp nhà nước tổ chức các doanh nghiệp và người nuôi lại. Như chúng ta đã nói muốn đi xa phải đi cùng nhau, tập hợp khả năng đầu tư của nhiều doanh nghiệp khác nhau tham gia. Ai có nhiều góp nhiều, ai có ít góp ít để chúng ta có nguồn lực mạnh hơn nữa, đẩy mạnh tổ chức sản xuất theo chuỗi".

Để tháo gỡ khó khăn cho người nuôi biển, trong thời gian tới, Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các địa phương đẩy nhanh giao mặt nước nuôi trồng thủy sản, đồng thời hoàn thiện bộ tiêu chuẩn quốc gia nuôi biển, dự kiến ban hành vào năm 2026, nhằm tạo cơ sở cho đầu tư, bảo hiểm và quản lý môi trường cho ngành nghề nuôi biển.

Hương Giang/VOV-Đông Bắc

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/thuc-day-nuoi-bien-vuon-ra-xa-bo-post1249586.vov