Thực hiện không đúng quy định về xem tài sản bán đấu giá
Hỏi: Tôi tham gia đấu giá tài sản tại công ty bán đấu giá tài sản X. Họ thông báo thứ 6 là ngày bắt đầu tổ chức để người tham gia đấu giá tài sản được trực tiếp xem tài sản. Đến ngày thứ 7 tôi mới được nghỉ làm để đến xem tài sản đấu giá thì nhân viên công ty bán đấu giá trả lời thứ 7 và chủ nhật là ngày nghỉ nên thứ 2 họ mới tiếp tục tổ chức xem tài sản. Tôi rất băn khoăn vì những lần trước tôi tham gia đấu giá tại một số công ty khác họ vẫn tổ chức xem tài sản đấu giá vào thứ 7. Xin hỏi việc tổ chức xem tài sản đấu giá của công ty X có vi phạm quy định pháp luật không? Nếu có thì sẽ bị xử lý vi phạm như thế nào?
(Lê Thị Đào, trú tại Hoàng Mai, Hà Nội)
Trả lời:
Tại Điều 36 Luật Đấu giá tài sản quy định về việc xem tài sản đấu giá như sau:
“1. Kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến ngày mở cuộc đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cho người tham gia đấu giá được trực tiếp xem tài sản hoặc mẫu tài sản trong khoảng thời gian liên tục ít nhất là 02 ngày. Trên tài sản hoặc mẫu tài sản phải ghi rõ tên của người có tài sản đấu giá và thông tin về tài sản đó.
2. Kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến ngày mở cuộc đấu giá, đối với tài sản đấu giá là quyền tài sản hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cho người tham gia đấu giá được xem giấy tờ về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và tài liệu liên quan trong khoảng thời gian liên tục ít nhất là 02 ngày.”
Theo quy định trên, việc xem tài sản đấu giá được tổ chức trong khoảng thời gian liên tục ít nhất là 02 ngày. Như vậy, nếu công ty đấu giá X tổ chức xem tài sản đấu giá bắt đầu từ ngày thứ 6 thì phải tổ chức liên tục trong khoảng thời gian liên tục ít nhất 02 ngày từ thứ 6 đến hết thứ 7. Luật đấu giá không quy định việc tổ chức xem tài sản đấu giá phải thực hiện vào ngày làm việc. Nên công ty đấu giá X tổ chức xem tài sản bán đấu giá bắt đầu từ ngày thứ 6 và dừng lại cho đến thứ 2 tuần sau đó mới tổ chức tiếp là thực hiện không đúng quy định của Luật đấu giá tài sản về xem tài sản đấu giá theo quy định tại Điều 36 Luật Đấu giá tài sản. Hành vi vi phạm pháp luật đấu giá tài sản này sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; được sửa đổi bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP; cụ thể:
“Điều 21. Hành vi vi phạm quy định về tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản
...
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Thực hiện không đúng quy định về việc niêm yết, thông báo bán đấu giá tài sản, xem tài sản bán đấu giá;
b) Không niêm yết; không thông báo việc bán đấu giá tài sản; không tổ chức để người tham gia đấu giá được xem tài sản bán đấu giá;
c) Không trưng bày tài sản bán đấu giá, hạn chế việc xem tài sản bán đấu giá, hồ sơ tài sản bán đấu giá trước ngày mở cuộc bán đấu giá tài sản;
d) Không ban hành nội quy, quy chế bán đấu giá tài sản;
đ) Cử người không phải là đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản;
e) Cho cá nhân, tổ chức khác tiến hành hoạt động bán đấu giá tài sản dưới danh nghĩa của mình;
g) Cấp thẻ đấu giá viên cho người không đủ tiêu chuẩn, người không làm việc tại tổ chức mình;
h) Thẩm định giá và bán đấu giá đối với cùng một tài sản.”
Hành vi thực hiện không đúng quy định về xem tài sản bán đấu giá sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 21 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và được sửa đổi bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP.
Áp dụng Điều 4 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP quy định mức phạt tại Điều 21 được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức; và Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính “Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt” xác định mức tiền phạt đối công ty đấu giá có hành vi thực hiện không đúng quy định về xem tài sản bán đấu giá là 15.000.000 đồng (mức trung bình khung tiền phạt).