Tích cực cùng Thái Nguyên thúc đẩy di cư an toàn vì lợi ích của tất cả mọi người
Bà Phan Thị Minh Giang, Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao, chia sẻ một số giải pháp mà các địa phương, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, cần thực hiện để thúc đẩy di cư an toàn và triển khai hiệu quả Thỏa thuận toàn cầu về Di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).
Hưởng ứng Ngày quốc tế Người di cư (18/12) và nhằm tuyên truyền, phổ biến thông tin cho người dân Thái Nguyên và các địa phương về Thỏa thuận GCM và di cư an toàn, bà Phan Thị Minh Giang, Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao trả lời phỏng vấn, nêu những khó khăn, thách thức mà người lao động Việt Nam thường gặp phải khi di cư ra nước ngoài, và chỉ ra một số giải pháp để các địa phương, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, thúc đẩy di cư an toàn và triển khai hiệu quả Thỏa thuận GCM.
Bà có thể chia sẻ vài nét chính về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài thời gian qua?
Trong những năm qua (trừ giai đoạn dịch bệnh Covid-19), cùng với quá trình hội nhập quốc tế chủ động, tích cực của Việt Nam, số lượng công dân Việt Nam di cư ra nước ngoài tăng nhanh chóng với các hình thức đa dạng, trong đó di cư lao động là loại hình di cư chính.
Trừ thời gian dịch bệnh Covid-19, từ 2014 đến nay, mỗi năm có hơn 100.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hàng năm. Các thị trường tiếp nhận chính là Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc.
Qua số liệu thống kê do các quốc gia công bố, đến nay có hơn 250.000 du học sinh Việt Nam đang theo học ở nước ngoài, tập trung nhiều ở các nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Canada, Anh, Đức.
Bên cạnh đó còn có các loại hình di cư khác như di cư kết hôn có yếu tố nước ngoài, di cư cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, di cư đầu tư, di cư đoàn tụ gia đình.
Bên cạnh di cư qua các kênh chính thức, tình trạng công dân Việt Nam di cư qua các kênh không chính thức diễn biến phức tạp. Đặc biệt từ năm 2021 đến nay, nổi lên tình trạng công dân Việt Nam bị đưa sang một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á để cưỡng ép thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật tại các cơ sở lừa đảo trực tuyến. Theo tổng hợp sơ bộ của Cục Lãnh sự, từ 2021 đến nay, có khoảng 4.000 công dân Việt Nam được các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài giải cứu, hỗ trợ và đưa về nước; một số trường hợp được xác định là nạn nhân bị mua bán.
Hiện nay, công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo nhiều hình thức khác nhau như thông qua các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài; theo chương trình lao động kết hợp kỳ nghỉ mà Việt Nam đã ký kết với một số nước hay các chương trình lao động thời vụ, hợp tác lao động qua biên giới ở cấp địa phương với Hàn Quốc, Trung Quốc. Ngoài ra, còn có một bộ phận người lao động đi làm việc theo hợp đồng cá nhân hoặc lao động tự phát trong khu vực biên giới hay ở lại nước ngoài làm việc bằng con đường du lịch.
Cũng như những người di cư khác, khó khăn chung mà họ thường gặp phải là rào cản về ngôn ngữ, giao tiếp, sự khác biệt về văn hóa lối sống, việc khó tiếp cận với các dịch vụ y tế, bảo trợ xã hội, những vấn đề về tâm lý khi phải xa gia đình, người thân, một mình ở nơi xứ người.
Bên cạnh đó, người lao động cũng gặp một số khó khăn đặc thù, nguy cơ bị tổn thương thường dễ xảy ra trong môi trường làm việc như: bị thu giữ giấy tờ tùy thân, bị phân biệt đối xử, bị ngược đãi, bị làm việc quá giờ, bị tai nạn lao động, không được trả lương theo hợp đồng, không được bảo đảm điều kiện làm việc, bị ép thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật…
Tuy nhiên, mức độ khó khăn, thách thức phụ thuộc vào hình thức đi lao động như thế nào, hợp pháp hay không hợp pháp. Những nguy cơ, rủi ro này càng gia tăng đối với nhóm người đi lao động theo các kênh không chính thức.
Bà có thể đưa ra lời khuyên dành cho những người đang chuẩn bị đi làm việc ở nước ngoài và những người đang lao động ở nước ngoài khi gặp phải các tình huống khẩn cấp hoặc khủng hoảng?
Người lao động khi có ý định đi làm việc ở nước ngoài cần tìm hiểu kỹ thông tin về các chương trình hợp tác lao động, các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được đăng tải trên các trang thông tin của Cục Quản lý lao động ngoài nước, Trung tâm Lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hay các cơ quan chức năng địa phương. Đặc biệt, đối với những trường hợp đi làm việc không thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, người lao động càng cần phải tìm hiểu thật kỹ thông tin về nội dung công việc, địa điểm dự kiến làm việc, chế độ, quyền lợi được hưởng hợp đồng lao động có tin cậy hay không, nhân thân người giới thiệu…
Ngoài kiến thức, kỹ năng về trình độ, chuyên môn, mỗi người lao động cần trang bị cho mình kiến thức về chính sách, pháp luật của Việt Nam và nước tiếp nhận, nội dung hợp đồng lao động, cách thức ứng xử, về phòng, chống mua bán người, cưỡng bức lao động, lạm dụng tình dục. Đây là những thông tin được cung cấp qua các chương trình giáo dục định hướng dành cho người lao động trước khi xuất cảnh ra nước ngoài làm việc.
Trong quá trình làm việc ở nước ngoài, nếu có vấn đề phát sinh, người lao động cần trao đổi và khiếu nại với người sử dụng lao động, doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi cũng như các cơ quan đầu mối trong hợp tác lao động giữa Việt Nam và nước ngoài, đề nghị có biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích của mình.
Khi gặp tình huống khẩn cấp và khủng hoảng, người lao động Việt Nam ở nước ngoài cần liên hệ ngay với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại thông qua số điện thoại đường dây nóng của cơ quan đại diện hay liên hệ với Tổng đài bảo hộ công dân của Bộ Ngoại giao để được hỗ trợ kịp thời. Người lao động cần tuân thủ hướng dẫn của các cơ quan chức năng nước sở tại.
Ở cấp quốc gia, Việt Nam đang có những chính sách gì nhằm bảo đảm di cư hợp pháp, an toàn?
Để thúc đẩy di cư hợp pháp, an toàn, Chính phủ Việt Nam và các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, toàn diện từ hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến di cư quốc tế cho đến đẩy mạnh tuyên truyền về di cư hợp pháp, an toàn và tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về di cư.
Thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến di cư quốc tế ngày càng được hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo khuôn khổ pháp lý để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người di cư, tiêu biểu là việc ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành và mới đây là Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 vào ngày 28/11/2024.
Công tác thông tin, tuyên truyền về di cư hợp pháp, an toàn đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương triển khai sâu rộng và mạnh mẽ, dưới nhiều hình thức như đăng tải trên trang thông tin điện tử; tổ chức các chiến dịch truyền thông; tổ chức đối thoại cộng đồng; thành lập các trung tâm giới thiệu việc làm, văn phòng thông tin; nội dung tập trung vào các vấn đề mới nổi lên trong tình hình di cư như mua bán người nhằm mục đích cưỡng ép thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật tại các cơ sở lừa đảo trực tuyến.
Công tác hợp tác quốc tế tiếp tục được tăng cường, qua đó góp phần mở rộng các kênh di cư hợp pháp, an toàn, phòng, chống di cư trái phép, đưa người di cư trái phép, mua bán người.
Hiện Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về Di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (Thỏa thuận GCM) ban hành kèm theo Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 20/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ sau khi thông qua Thỏa thuận này vào năm 2018, trong đó đề ra các giải pháp nhằm tạo môi trường di cư minh bạch, dễ tiếp cận, tôn trọng nhân phẩm người di cư, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ, đặc biệt là các nhóm đặc thù, phụ nữ và trẻ em.
Bà hãy cho biết thêm một số điểm nổi bật của Thỏa thuận GCM và vai trò của phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong thúc đẩy di cư an toàn và triển khai Thỏa thuận GCM?
Thỏa thuận GCM được Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 73 chính thức thông qua ngày 19/12/2018. Đây là thỏa thuận liên chính phủ đầu tiên về di cư nhằm thiết lập khuôn khổ hợp tác toàn cầu để quản lý di cư một cách hiệu quả, hướng tới mục tiêu thúc đẩy di cư hợp pháp, an toàn và trật tự vì sự phát triển bền vững, bảo vệ quyền và lợi ích của người di cư và hỗ trợ người di cư hội nhập và đóng góp cho phát triển.
Điểm nổi bật thứ nhất là Thỏa thuận đã sử dụng cách tiếp cận toàn diện, đa chiều (tầm nhìn 360 độ) để nhìn nhận vấn đề di cư ở các khía cạnh khác nhau và quan tâm đến hầu hết các vấn đề có liên quan, đặc biệt là đáp ứng giới, nhạy cảm với trẻ em, cơ hội việc làm thỏa đáng, bảo vệ người di cư, phát triển bền vững, biến đổi khí hậu.
Điểm nổi bật thứ hai, với cam kết của các quốc gia, Thỏa thuận GCM đặt nền móng cho việc phát triển cơ chế hợp tác toàn diện nhằm giải quyết các thách thức và cơ hội của di cư trên tất cả các khía cạnh.
Thỏa thuận GCM là kết quả của sự đoàn kết, hợp tác, tinh thần chia sẻ trách nhiệm của các quốc gia, với 10 nguyên tắc định hướng, trong đó có cách tiếp cận toàn chính phủ.
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trong khu vực châu Á đã ban hành Kế hoạch triển khai Thỏa thuận GCM từ rất sớm. Kế hoạch gồm 5 nhiệm vụ trọng tâm và 60 nhiệm vụ cụ thể, phân công cụ thể cơ quan đầu mối, cơ quan chủ trì, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ.
Do tính chất đa chiều, đa lĩnh vực, các vấn đề di cư cần được xem xét giải quyết trên cách tiếp cận “toàn chính phủ” và “toàn xã hội”. Do đó, sự phối hợp liên ngành trong thúc đẩy di cư an toàn và triển khai thực hiện Thỏa thuận GCM là cần thiết để quản lý di cư hiệu quả, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người di cư trong suốt quá trình di cư.
Theo bà, các địa phương, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, cần làm gì để thúc đẩy di cư an toàn và triển khai hiệu quả Thỏa thuận GCM trong thời gian tới?
Di cư trong thời gian tới vẫn tiếp tục có xu hướng gia tăng, do vậy cần bảo đảm di cư diễn ra hợp pháp, an toàn. Theo tôi có một số giải pháp mà chúng ta cần tập trung hơn nữa trong thời gian tới:
Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông về di cư an toàn, phổ biến chính sách, pháp luật liên quan đến di cư quốc tế (quy định về tuyển dụng lao động, chi phí đi làm việc ở nước ngoài…), tạo môi trường di cư minh bạch, an toàn, phòng ngừa di cư qua các kênh không chính thức.
Hình thức thông tin, tuyên truyền cần đa dạng, thông qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là trên môi trường mạng, có cách thức truyền tải phù hợp với thị hiếu, xu hướng quan tâm của giới trẻ, những người đang có nhu cầu tìm việc làm.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý tình hình công dân tại địa phương ra nước ngoài, việc nắm bắt số liệu rất quan trọng, để không chỉ hỗ trợ công dân và xử lý khi có vấn đề phát sinh mà còn thông qua đó để nắm rõ hơn về xu hướng di cư, những vấn đề của di cư, từ đó giúp xây dựng chính sách theo kịp với tình hình thực tiễn.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động tư vấn du học, giới thiệu việc làm trên địa bàn; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp hoạt động không đúng quy định pháp luật, có dấu hiệu lừa đảo đưa người đi làm việc trái phép ở nước ngoài, môi giới, thu phí tuyển dụng trái quy định đối với người lao động.
Thứ tư, tích cực, chủ động tìm kiếm, hợp tác với các đối tác nước ngoài về lao động, việc làm, tạo cơ hội việc làm an toàn, thỏa đáng ở nước ngoài. Thời gian vừa qua, một số địa phương đã triển khai hiệu quả chương trình đưa công dân Việt Nam đi lao động thời vụ tại Hàn Quốc thông qua các Thỏa thuận hợp tác giữa chính quyền địa phương của hai nước.
Cuối cùng và cũng quan trọng nhất đó là chúng ta cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, liên quan đến di cư, trong đó có Kế hoạch triển khai Thỏa thuận GCM và phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý di cư của Việt Nam, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam di cư ra nước ngoài.