Tích cực mua lại trái phiếu trước hạn, ngân hàng nhắm đến điều gì?
Nếu như nhóm bất động sản vẫn đang gặp nhiều khó khăn và chật vật với dòng tiền, ảnh hưởng đến khả năng tất toán các trái phiếu đến hạn, thì ngược lại nhóm ngân hàng vẫn đang hoạt động tốt, không chỉ đảm bảo được khả năng thanh toán các trái phiếu đến hạn mà có thể còn tiếp tục mua lại trước hạn thêm nhiều trái phiếu.
Tích cực mua lại trước hạn
Gần 25.600 tỉ đồng là lượng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đã được các doanh nghiệp mua lại trong tháng 5-2023, trong đó nhóm ngân hàng chiếm đa số với hơn 17.000 tỉ đồng, tương đương 66% lượng mua lại, theo dữ liệu từ Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) công bố mới đây. Tính lũy kế từ đầu năm 2023 đến nay, tổng giá trị trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại trước hạn đạt hơn 76.500 tỉ đồng, tăng vọt 70,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Việc các doanh nghiệp mua lại trước hạn trái phiếu đã trở thành xu hướng phổ biến kể từ cuối năm ngoái đến nay, khi mà nhiều đợt phát hành trái phiếu trước đây không đảm bảo đủ điều kiện phát hành, cũng như không tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn theo phương án đề ra ban đầu. Việc này nhằm tránh những rủi ro về mặt pháp lý theo các quy định mới.
Tuy nhiên, việc nhóm ngân hàng từ đầu năm đến nay đẩy mạnh mua lại trái phiếu có lẽ khiến không ít người ngạc nhiên. Trước đó, báo cáo thị trường TPDN tháng 4-2023 phát hành bởi Fiin Group cho thấy nhóm ngân hàng chiếm 61% giá trị trái phiếu mua lại tại thời điểm tháng 4. Giá trị trái phiếu ngân hàng được các tổ chức này mua lại tăng 5,64 lần so với tháng 3 và tăng 2,42 lần so với cùng kỳ năm 2022. Hầu hết các lô trái phiếu được các ngân hàng mua lại có kỳ hạn ba năm và có thời gian đáo hạn còn lại đúng một hoặc hai năm (2024 hoặc 2025).
Thống kê cho thấy, tính đến thời điểm ngày 2-6-2023, tổng giá trị trái phiếu đến hạn trong phần còn lại của năm 2023 là 195.090 tỉ đồng; dẫn đầu là nhóm bất động sản với 101.179 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng lên đến gần 52%, xếp sau là nhóm ngân hàng với 31.661 tỉ đồng.
Do thừa tiền?
Nhìn vào tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm chạp từ đầu năm đến nay, cụ thể đến cuối tháng 5 chỉ mới tăng 3,17% so với đầu năm nay, chỉ tương đương 40% tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2022 là 8,04%, trong khi thanh khoản hệ thống quá dồi dào, có lẽ phần nào hiểu được vì sao các ngân hàng tích cực mua lại trước hạn trái phiếu đã phát hành như vậy. Rõ ràng với việc giải ngân vốn đầu ra chưa như kỳ vọng, nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế vẫn rất thấp, tình trạng thừa tiền kéo dài, các ngân hàng phải mua lại trái phiếu để giảm mức độ thừa vốn và tối ưu hiệu quả sử dụng vốn.
Các ngân hàng đã tăng vốn ồ ạt thành công trong thời gian gần đây, cũng như có kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ khủng trong năm nay, giúp tăng hệ số an toàn vốn cũng như cải thiện cơ cấu nguồn vốn kinh doanh dài hạn. Do đó, việc này cũng sẽ giúp các tổ chức này giảm bớt mức độ phụ thuộc vốn ở kênh trái phiếu. Cho nên, mua lại trước hạn trái phiếu đã phát hành cũng là chiến lược phù hợp.
Vào tháng 4-2023, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 03/2023/TT-NHNN, theo đó ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 điều 4 Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán TPDN. Cụ thể, kể từ ngày Thông tư 03 có hiệu lực (ngày 24-4-2023) đến hết ngày 31-12-2023, TCTD được mua lại TPDN chưa niêm yết đã bán và/hoặc TPDN chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với TPDN chưa niêm yết mà TCTD đã bán khi đáp ứng một số điều kiện tại thông tư này.
Theo đó, các ngân hàng ngoài việc mua lại trái phiếu của các doanh nghiệp mà mình đã tư vấn, bảo lãnh phát hành hay phân phối đến nhà đầu tư, cũng có thể lựa chọn tự mua lại trái phiếu của chính mình đã phát hành nếu đảm bảo đủ điều kiện và thỏa thuận được với trái chủ, hoặc trong quy định phát hành trước đây có kèm điều khoản được mua lại.
Hay còn nhắm đến điều gì khác?
Điều quan trọng hơn là theo quy định hiện nay, vốn tự có cấp 2 (chủ yếu là từ nguồn phát hành trái phiếu dài hạn có kỳ hạn trên năm năm) tối đa bằng vốn tự có cấp 1 (chủ yếu gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và lợi nhuận chưa phân phối). Do đó, với những trái phiếu dài hạn đã phát hành những năm trước và khi không còn đảm bảo điều kiện thời gian còn lại trên năm năm, thì bắt đầu từ năm thứ 5 trước khi đến hạn thanh toán, mỗi năm tại ngày đầu tiên của năm (tính theo ngày phát hành), giá trị nợ trái phiếu được tính vào vốn cấp 2 sẽ phải khấu trừ 20% tổng mệnh giá.
Trước quy định trên, các ngân hàng sẽ tìm cách mua lại trước hạn các trái phiếu này để có dư địa phát hành trái phiếu mới có kỳ hạn trên năm năm trong thời gian tới, nhằm tăng giá trị được tính vào vốn tự có cấp 2 nhiều hơn. Nói cách khác, việc mua lại trước hạn các trái phiếu để đảm bảo đủ điều kiện cho kế hoạch phát hành mới là cách mà các ngân hàng tái cơ cấu lại kỳ hạn của trái phiếu theo hướng dài hơn, nhằm duy trì hệ số an toàn vốn luôn ở mức cao, cũng như đảm bảo cho các hệ số khác như tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn.
Thực tế, bên cạnh những đợt mua lại trước hạn, vẫn có những ngân hàng lên kế hoạch tiếp tục huy động vốn qua kênh trái phiếu này, dù thị trường TPDN vẫn đang gặp không ít khó khăn. Với chủ thể là các ngân hàng có hiệu quả kinh doanh ổn định, các nhà đầu tư vẫn có đủ sự tin tưởng để mua trái phiếu ngân hàng với lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Như Vietcombank (VCB) mới đây cho biết hội đồng quản trị đã thông qua phương án phát hành trái phiếu ra công chúng thành hai đợt với tổng giá trị 9.000 tỉ đồng trong thời gian tới.
Trong một diễn biến khác, mới đây Chính phủ ban hành Nghị quyết 88/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5-2023 trực tuyến với địa phương, trong đó đã yêu cầu Bộ Tài chính theo dõi sát tình hình thị trường TPDN, đặc biệt là các tổ chức phát hành có khối lượng phát hành lớn và gặp khó khăn trong nghĩa vụ thanh toán gốc, lãi đến hạn trong năm 2023. Hoàn thiện báo cáo về tình hình thị trường TPDN năm 2022-2023, đề xuất các giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả để xử lý dứt điểm các vấn đề tồn tại, hạn chế hiện nay, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15-6-2023.