Tiềm lực công nghệ y sinh của Cuba và cơ hội hợp tác với Việt Nam

Cuba là một quốc đảo có quy mô kinh tế nhỏ, nhưng lại nổi bật toàn cầu nhờ chiến lược đầu tư mạnh mẽ, dài hạn vào công nghệ sinh học và y tế cộng đồng từ những năm 1980 đã đầu tư tới 2% GDP cho khoa học công nghệ, trong đó phần lớn tập trung vào lĩnh vực công nghệ sinh học và y tế.

Thảo luận cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ sinh học, y sinh Việt Nam - Cuba

Thảo luận cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ sinh học, y sinh Việt Nam - Cuba

Đến nay, Cuba đã xây dựng được một hệ sinh thái y sinh học đồng bộ, tích hợp từ nghiên cứu cơ bản, phát triển sản phẩm, thử nghiệm lâm sàng, sản xuất quy mô công nghiệp và xuất khẩu, với trên 30 trung tâm nghiên cứu - sản xuất, nhiều sản phẩm được xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia.

Ưu điểm vượt trội của công nghệ y sinh Cuba: Chi phí thấp - hiệu quả cao, Cuba tập trung phát triển công nghệ phù hợp cho các nước đang phát triển với chi phí hợp lý, dễ tiếp cận. Chuỗi giá trị khép kín: Tự chủ từ nghiên cứu đến sản xuất và thương mại hóa, tránh phụ thuộc nhập khẩu. Sản phẩm phù hợp thực tiễn vùng nhiệt đới. Nguồn nhân lực mạnh: Tỷ lệ tiến sĩ khoa học/số dân cao hàng đầu Mỹ Latinh.

Đây là cơ sở mở ra cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Cuba trong lĩnh vực y sinh, bởi hai quốc gia có tính tương thích cao về điều kiện dịch tễ, khí hậu và chính sách phát triển y tế cộng đồng.

Việt Nam có hạ tầng sản xuất và thị trường tiêu thụ lớn, còn Cuba có công nghệ lõi và sáng chế quốc tế, tạo cơ sở tốt để thiết lập mô hình liên doanh - đồng phát triển tại Trung tâm Hợp tác Công nghệ Y sinh Việt Nam - Cuba.

Tại Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cuba, các chuyên gia thuộc các Tập đoàn y sinh hàng đầu Cuba đã giới thiệu các dự án có triển vọng hợp tác; trong đó có Dự án hỗ trợ điều trị ung thư từ nọc bọ cạp của Tập đoàn LabioFAM và các đề xuất hợp tác với Việt Nam.

DỰ ÁN HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TỪ NỌC BỌ CẠP CUBA

Tiến sĩ Aníbal Domínguez Odio - Giám đốc nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, Tập đoàn LabioFAM giới thiệu Dự án hỗ trợ điều trị ung thư từ nọc bọ cạp Cuba và các đề xuất hợp tác với Việt Nam

Tiến sĩ Aníbal Domínguez Odio - Giám đốc nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, Tập đoàn LabioFAM giới thiệu Dự án hỗ trợ điều trị ung thư từ nọc bọ cạp Cuba và các đề xuất hợp tác với Việt Nam

Ung thư là một trong những căn bệnh có tác động lớn nhất ở cả các nước phát triển và kém phát triển và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Năm 2022, có 19.976.499 ca mới được báo cáo trên toàn thế giới và 9.743.832 người tử vong. Cụ thể, tại Việt Nam, 180.480 ca mới và 120.184 ca tử vong được báo cáo. Trong khi cùng năm đó tại Cuba, tổng cộng có 49.688 ca mới và 27.724 ca tử vong được báo cáo, nghĩa là con số người mắc bệnh rất thấp so với Việt Nam.

Trong những năm gần đây, đã có những tiến bộ đáng kể trong liệu pháp tế bào gốc, liệu pháp miễn dịch, liệu pháp nhắm mục tiêu, liệu pháp cắt bỏ, hạt nano và chất chống oxy hóa tự nhiên. Tuy nhiên, tất cả các phương pháp điều trị thay thế hiện có đều có những hạn chế do khả năng kháng thuốc tiến triển mà các tế bào khối u có được đối với phương pháp điều trị này và độc tính mà nó gây ra ở các tế bào không phải khối u. Tiến sĩ Aníbal Domínguez Odio - Giám đốc nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, Tập đoàn LabioFAM và Tiến sĩ Arianna Yglesias Rivera –Trưởng dự án nghiên cứu Peptide chống ung thư, Tập đoàn LabioFAM đã giới thiệu dự án nghiên cứu nhằm tìm ra các hình thức điều trị góp phần ngăn ngừa và loại bỏ ung thư chiếm một lĩnh vực rất rộng trong lĩnh vực nghiên cứu.

Đặc biệt, nọc bọ cạp Cuba được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền vì khả năng chống khối u của chúng. Nọc độc của loài bọ cạp Cuba đặc hữu Heteroctenus junceuscó đặc tính chống viêm, giảm đau và chống khối u. Nhóm kinh doanh của Tập đoàn LabioFAM đã tập trung vào việc tìm kiếm bằng chứng khoa học chứng minh tiềm năng của Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạp như một liệu pháp bổ trợ trong điều trị ung thư.

Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạp ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sống của tế bào khối u biểu mô, mà không ảnh hưởng đến tế bào bình thường hoặc tế bào khối u không bám dính. Các protein có trọng lượng phân tử thấp có trong nọc độc chủ yếu chịu trách nhiệm cho hoạt động sinh học của nó.

Trong ống nghiệm, Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạp gây chết tế bào, ở nồng độ thấp, thông qua quá trình apoptosis, trong khi ở nồng độ cao, nó có khả năng gây hoại tử và làm tăng sự phân mảnh DNA trong cơ thể sống, do đó nó có thể ức chế khả năng kháng apoptosis của tế bào khối u.

Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạpgây ra sự chậm trễ đáng kể trong quá trình tiến triển của khối u ở mô hình thực nghiệm ung thư vú và ung thư ruột kết khi dùng qua đường uống và tiêm phúc mạc.

Tác dụng chống khối u và chống di căn của Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạp có khả năng được thực hiện bằng cách điều chỉnh hoạt động sinh lý của các kênh ion Na + và K + liên quan đến sự tăng sinh, di cư và di căn của tế bào.

Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạp khi có khối u do dòng u vú gây ra, nó làm giảm nồng độ TNF-α và IL-6, góp phần tạo nên tác dụng của thuốc chống khối u được quan sát thấy trong cơ thể sống.

Điều trị kết hợp với Heteroctenus junceusnọc độc bọ cạpvà hóa trị liệu làm tăng tác dụng chống ung thư của nó một cách hiệp đồng, tùy thuộc vào loại tác nhân gây ức chế tế bào, nồng độ của nó và dòng tế bào của nó. Nó cũng thúc đẩy việc giảm liều có lợi của liệu pháp thông thường, điều này sẽ giúp cho việc giảm tác dụng phụ và khả năng kháng hóa chất của nó và có thể tạo thành một chiến lược điều trị hiệu quả ở bệnh nhân ung thư.

Nọc độc của bọ cạp Heteroctenus junceuscó tác dụng chống viêm và giảm đau và rất an toàn với khả năng gây độc tính thấp. Nọc độc có ái lực cao với mô khối u, nghĩa là nó tồn tại trong cơ thể lâu hơn, dẫn đến khả dụng sinh học cao hơn ở trạng thái bệnh lý.

Các nghiên cứu dược động học về đường uống cho thấy nọc độc hiện diện nhiều trong khối u vú, phổi, dạ dày, ruột non, ruột già và gan, điều này cho thấy tiềm năng điều trị khối u ác tính ở đường tiêu hóa và phổi, đồng thời cũng cho thấy nọc độc phân bố sinh học cao trong cơ thể.

Nghiên cứu cũng chỉ ra bằng chứng về khái niệm với peptide RjLB-14 cho thấy đây là một hợp chất an toàn với khả năng phân bố nhanh và rộng khắp trong cơ thể, khiến nó trở thành một thành phần dược phẩm hoạt tính có tiềm năng to lớn cho sự phát triển trong tương lai của các loại thuốc chống khối u cho các vị trí nhắm mục tiêu khác nhau. Tác dụng chống khối u của peptit RjLB-14 gợi ý tiềm năng rộng lớn như một loại thuốc chống khối u trong tương lai cho các vị trí mục tiêu khác nhau.

Tiến sĩ Arianna Yglesias Rivera - Trưởng dự án nghiên cứu Peptide chống ung thư, Tập đoàn LabioFAM giới thiệu dự án nghiên cứu từ nọc bò cạp Cuba

Tiến sĩ Arianna Yglesias Rivera - Trưởng dự án nghiên cứu Peptide chống ung thư, Tập đoàn LabioFAM giới thiệu dự án nghiên cứu từ nọc bò cạp Cuba

Từ các kết quả nghiên cứu khoa học được trình bày cho phép Cuba và Việt Nam hợp tác nhằm phát triển các loại thuốc có tiềm năng chống khối u và có tác động lớn về mặt xã hội và kinh tế. Tập đoàn LabioFAM đề xuất hợp tác nghiên cứu và sản xuất thương mại các sản phẩm có nguồn gốc từ nọc độc bọ cạp Heteroctenus junceus tại Việt Nam. Tăng cường phát triển trại nuôi bọ cạp tại LabioFAM để nhân giống bọ cạp Heteroctenus junceus. Chuyển giao công nghệ sản phẩm thiên nhiên dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có tại Việt Nam. Hợp tác cùng nhau để nâng cao việc nuôi trồng Arthrospira platensis (Tảo xoắn) tại LabioFAM nhằm tăng mức sản lượng hiện tại. Cùng phát triển các sản phẩm thiên nhiên mới tại Việt Nam và hợp tác ứng dụng vào hệ thống chăm sóc sức khỏe và điều trị tại Việt Nam, cùng tham gia đưa sản phẩm thiên nhiên LabioFAM vào hệ thống y tế Việt Nam.

Viện Kinh tế Xanh và Tập đoàn LabioFAM (Cuba) đã kí Hợp đồng khung hợp tác toàn diện về việc cùng hợp tác nghiên cứu, phát triển, sản xuất và thương mại các sản phẩm, công trình nghiên cứu công nghệ sinh học nông nghiệp và y học tự nhiên phục vụ chăm sóc sức khỏe Nhân dân và phát triển nông nghiệp bền vững. Trong đó, có các sản phẩm nổi tiếng của Cuba như sản phẩm hỗ trợ bệnh nhân ung thư từ nọc bọ cạp xanh, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, phân bón vi sinh, mỹ phẩm thiên nhiên...

TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP SINH DƯỢC HỌC CUBA (CIGB)

Tiến sĩ Miladys Limonta Fernández - Giám đốc Kinh doanh và phát triển, Trung tâm kĩ thuật gien và Công nghệ sinh học CIGB thảo luận cơ hội hợp tác với Việt Nam

Tiến sĩ Miladys Limonta Fernández - Giám đốc Kinh doanh và phát triển, Trung tâm kĩ thuật gien và Công nghệ sinh học CIGB thảo luận cơ hội hợp tác với Việt Nam

Tiến sĩ Miladys Limonta Fernández - Giám đốc Kinh doanh và phát triển, Trung tâm kĩ thuật gien và Công nghệ sinh học CIGB đã giới thiệu các thế mạnh công nghệ y sinh phục vụ nông nghiệp bền vững của Trung tâm Kỹ thuật Di truyền và công nghệ sinh học Cuba cùng những cơ hội hợp tác với Việt Nam.

Tập đoàn BioCubaFarma thành lập từ năm 2012 gồm có hơn 15.000 lao động (268 tiến sĩ, 1.265 thạc sĩ), 51 doanh nghiệp, 164 dây chuyền sản xuất (ở 11 nước ngoài); 21 đơn vị khoa học, công nghệ và đổi mới; 396 dự án nghiên cứu và phát triển R&D (2.300 bằng sáng chế), 760 giấy phép lưu hành, xuất khẩu tới 77 quốc gia. Hệ thống sản xuất khép kín từ nghiên cứu - thử nghiệm - sản xuất - phân phối - xuất khẩu. Hệ thống sản xuất đạt chuẩn GMP, mở rộng liên tục với công ty mới. Có 10 liên doanh quốc tế tại các nước, trong đó có liên doanh GENFARMA - VIỆT NAM phát triển, sản xuất và kinh doanh sinh phẩm. Nền tảng công nghệ: Kháng thể đơn dòng, vắc-xin, protein và peptide tái tổ hợp.

Trung tâm Kỹ thuật Di truyền và Công nghệ sinh học (CIGB) có nhiều mảng như Y sinh học: chẩn đoán, điều trị, phòng bệnh truyền nhiễm, tự miễn, tim mạch, ung thư... Thú y: phòng và điều trị bệnh, dinh dưỡng động vật; Nông nghiệp: kiểm soát sâu bệnh; Công nghiệp: sản phẩm cho thực phẩm.Các sản phẩm chủ lực: Vắc-xin 5 trong 1, viêm gan B tái tổ hợp, Hib liên hợp; Interferon alpha, gamma, HeberFERON, Heberprot-P, Jusvinza, Abdala, chẩn đoán; Thú y: GAVAC, bionematicide, Acuabio.

Chu trình khép kín của CIGB: Nghiên cứu, phát triển - thử nghiệm lâm sàng - sản xuất, kiểm soát chất lượng - thương mại hóa.

Chương trình tiêm chủng Viêm gan B tại Cuba giảm mạnh số ca mắc từ 1992-2019, toàn bộ dân số dưới 40 tuổi được tiêm. Abdala: vắc-xin COVID đầu tiên tại Mỹ Latinh - đã sử dụng tại Việt Nam (5 triệu liều).

Bằng sáng chế & phê duyệt quốc tế: có 768 hồ sơ, 62% là sáng chế, 29% đã được cấp bằng và 252 giấy phép tại 57 quốc gia.

Mô hình hợp tác mở: Cấp phép, đồng phát triển; phân phối, đại diện; sản xuất theo hợp đồng; đầu tư và hợp tác khoa học.

Viện Kinh tế Xanh cũng đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác toàn diện với Trung tâm Kỹ thuật gien và Công nghệ sinh học CIGB (Công ty BioCubafarma - Bộ Y tế Cuba) về việc cùng hợp tác nghiên cứu, phát triển, sản xuất và thương mại các sản phẩm, công trình nghiên cứu công nghệ sinh học nông nghiệp; trong đó nổi bật là các loại vắc xin dành cho động vật, gia súc, gia cầm, thủy hải sản, chế phẩm bảo quản thực phẩm sinh học...

Đất nước Cuba với ý chí tự lực tự cường đã từng bước vượt qua khó khăn để trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về công nghệ sinh học và y sinh. Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cuba mở ra cơ hội hợp tác cụ thể giữa Lâm Đồng và các doanh nghiệp công nghệ sinh học Cuba trong việc khai thác tiềm năng phát triển công nghệ y sinh.

Các chuyên gia, đối tác Cuba đặc biệt quan tâm đến chương trình hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cuba

Các chuyên gia, đối tác Cuba đặc biệt quan tâm đến chương trình hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cuba

AN NHIÊN - CHÍNH THÀNH

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/xa-hoi/202506/tiem-luc-cong-nghe-y-sinh-cua-cuba-va-co-hoi-hop-tac-voi-viet-nam-13b123b/