Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ II: Tiền kẽm

Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), vua ban lệnh từ Nghệ An trở ra phải dùng tiền kẽm thay cho tiền đồng cũ, nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch của dân. Triều đình quy định tất cả các hoạt động thu nộp, mua bán đều phải sử dụng 'Gia Long thông bảo' và 'Minh Mệnh thông bảo'. Tuy nhiên, tiền kẽm tuy đúc đẹp nhưng chất lượng kém, ít được ưa chuộng. Để ngăn tình trạng chọn bỏ tiền, triều đình buộc tiền mới và tiền cũ đều phải dùng, đồng thời đặt ra hình phạt nghiêm khắc với hành vi vi phạm: ai đúc trộm tiền bị xử giảo giam hậu, tịch thu gia sản; người tố cáo được thưởng 50 lạng bạc. Người vận chuyển, buôn bán trộm kẽm bị phạt 60 trượng, đồ 1 năm, hàng hóa và thuyền bị sung công, tang vật chia thưởng cho người tố giác. Quan lại địa phương nếu buông lỏng kiểm soát thì bị tội thất sát, cố ý dung túng thì đồng tội với kẻ phạm. Người làm việc trong xưởng đúc nếu mang kẽm ra ngoài cũng bị xử như tội lấy trộm tiền lương trong kho. Chính sách này cho thấy quyết tâm của triều đình trong việc quản lý tiền tệ và duy trì trật tự kinh tế...

b. Tiền kẽm

“Canh Thìn, năm Minh Mệnh thứ nhất (1820) ,tháng 9,… Sai từ Nghệ An trở ra dùng kẽm đúc tiền. Lại định lệnh cấm đúc trộm tiền... Vua cho là phải, dụ rằng “Đúc tiền là để lợi cho việc dùng của dân. Nhà nước mới đúc tiền kẽm, từ Quảng Bình vào Nam, đều đã tiêu dùng. Duy từ Nghệ An ra Bắc vẫn dùng tiền đồng cũ, từ trước đến nay, ngày càng hao bớt, dân dùng không đủ. Vậy đặc chuẩn từ nay về sau, kho tàng xuất thu, dân gian mua bán đều dùng kẽm tiền “Gia Long thông bảo” và “Minh Mệnh thông bảo” để cho cái lợi tiền tệ đến khắp mọi nơi”

Tiền kẽm tuy đúc đẹp nhưng chất lượng kém nên ít được ưa chuộng. Bởi vậy triều đình ra lệnh “Phàm ở dân thu nộp, ở chợ phố mua bán đổi chác, tiền mới tiền cũ đều dùng cả, không được chọn bỏ. Ai dám đúc trộm thì phải tội giảo giam hậu, tịch thu gia sản. Người tố cáo được thưởng bạc 50 lạng. Người chở trộm và mua bán trộm kẽm thì xử 60 trượng, đồ 1 năm, thuyền và hàng hóa, một thu vào nhà nước, lại lấy 3 phần 10 tang vật thưởng cho người tố cáo. Các quan phủ huyện và đồn thủ không kiểm soát được thì xử tội thất sát. Biết tình mà cố ý dung túng thì đồng tội với người phạm. Những người ở trường đúc cục Bảo tuyền và Đồ gia Bắc Thành, có ai mang khối kẽm đúc tiền ra ngoài thì theo luật lấy trộm tiền lương ở kho, tính tang vật xử tội”.

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều nổi rõ. Tiền có đường kính 22,4mm, dày 1mm, nặng 2,1gr.

Ảnh 1.11.13. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 theo kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, chất liệu kẽm, đường kính 22,4mm

Ảnh 1.11.13. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 theo kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, chất liệu kẽm, đường kính 22,4mm

Đón đọc Kỳ III: Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Tiền đồng lớn

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-doi-vua-nguyen-thanh-to-1820-1841-ky-ii-tien-kem-169928.html