Tìm hiểu về Luật Biển Việt Nam

Biển cả, Vùng trong Luật Biển Việt Nam

Điều 86, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã định nghĩa biển cả là những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không hạn chế về bất kỳ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng trong vùng đặc quyền kinh tế. Luật Biển Việt Nam gọi biển cả là biển quốc tế.

Vùng, theo định nghĩa của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, gồm đáy và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển. Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại.

Đối tượng điều chỉnh đầu tiên của Luật Biển

Việc xác định phạm vi điều chỉnh, áp dụng của Luật Biển là nội dung quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở nội dung này thì chưa đủ, thậm chí sẽ mất hết ý nghĩa thực tế nếu Luật Biển không xác định, điều chỉnh các mối quan hệ tồn tại thật đa dạng và phức tạp trong phạm vi không gian đó. Vì vậy, tiếp theo nội dung xác định phạm vi điều chỉnh nói trên là quy định về đối tượng điều chỉnh của Luật Biển.

Lực lượng Hải quân tuần tra trên đảo Thổ Chu. Ảnh: Internet

Lực lượng Hải quân tuần tra trên đảo Thổ Chu. Ảnh: Internet

Đối tượng trước hết mà Luật Biển cần điều chỉnh nhằm bảo vệ, quản lý là nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển. Đây là đối tượng luôn luôn được quan tâm không những chỉ ở cấp độ quốc gia, mà còn ở cấp độ khu vực và thế giới. Bởi vì, thật là vô nghĩa khi người ta chỉ quan tâm đến phạm vi không gian mà quên đi trong phạm vi đó có cái gì cần bảo vệ, gìn giữ, quản lý, tái tạo. Quản lý và bảo vệ tài nguyên biển (sinh vật và không sinh vật), môi trường, khoa học, kỹ thuật và dịch vụ biển trong lịch sử của các nền kinh tế là nguồn bổ sung quan trọng bậc nhất của kho báu.

Việc khai thác như thế nào đối với di sản chung của nhân loại, bao gồm cả việc xây dựng hạ tầng cơ sở, có thể nuôi dưỡng tái tạo chúng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế. Tài nguyên sinh vật và không sinh vật, môi trường biển là kho báu, mối quan tâm của toàn nhân loại; là bản chất của mọi quan hệ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...; đồng thời cũng là nguồn gốc của những tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia đã và đang diễn ra.

Rõ ràng, để khai thác lâu bền không chỉ là khai thác hợp lý mà còn biết bảo vệ, tái tạo, duy trì tính ổn định, trong sạch của môi trường biển vì lợi ích sống còn của nhân loại.

Địa vị pháp lý của các loại phương tiện hoạt động trong các vùng biển

Phương tiện hoạt động trong các vùng biển và thềm lục địa là đối tượng điều chỉnh của Luật Biển. Tàu chiến và tàu Nhà nước được dùng vào các mục đích không thương mại là một trong số đối tượng điều chỉnh của Luật Biển.

Theo Công ước La Haye (tiếng Anh: The Hague Convention) năm 1907 và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì tàu chiến là tàu thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của tàu quân sự thuộc quốc tịch nước đó, do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong tài liệu tương đương và đoàn thủy thủ phải tuân thủ điều lệnh, kỷ luật quân sự.

Công ước La Haye năm 1907 cho phép tàu quân sự được cải trang trong chiến tranh với điều kiện là không tham chiến khi gặp tàu của một nước trung lập và khi bước vào trận chiến nếu đang dùng cờ để cải trang thì phải hạ cờ cải trang xuống và kéo cờ của nước mình lên. Việc cải trang của tàu quân sự không được phép áp dụng trong thời bình.

Tàu chiến và tàu Nhà nước được dùng vào các mục đích không thương mại được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn khi nó hoạt động hợp pháp trên các vùng biển. Nước sở tại chỉ được quyền trục xuất khi xét thấy chiếc tàu đó đã vi phạm chủ quyền và yêu cầu Chính phủ có tàu quân sự đó trừng phạt những nhân viên phạm pháp thông qua con đường ngoại giao.

Tuy nhiên, quyền miễn trừ này không phải là vô hạn, song song với các quyền đó còn có những nghĩa vụ mà tàu quân sự phải thực hiện khi hoạt động trên các vùng biển khác nhau. Chẳng hạn, khi hoạt động ở biển cả, tàu chiến được quyền khám xét tất cả các tàu thuyền khác khi có căn cứ chắc chắn để cho rằng các tàu thuyền này đã thực hiện hành vi cướp biển, buôn bán trái phép, chuyên chở nô lệ, ma túy, các chất độc hại, đang truyền tin tức không đúng quy định quốc tế, tàu thuyền không có quốc tịch, có treo cờ hoặc không treo cờ nhưng trên thực tế có cùng quốc tịch với tàu quân sự đang làm nhiệm vụ khám xét.

Ngược lại, nếu không chứng minh được tàu thuyền bị khám đã phạm một trong những tội nói trên thì tàu tiến hành khám xét phải bồi thường thiệt hại do việc khám xét gây ra.

Ở vùng đặc quyền kinh tế, tàu chiến cũng có những quyền và nghĩa vụ như ở biển cả. Riêng tàu chiến của nước chủ nhà còn có quyền khám xét, bắt giữ tàu thuyền nước ngoài hoạt động vi phạm các quy định của nước mình. Ở vùng tiếp giáp lãnh hải, tàu chiến của nước chủ nhà, ngoài các quyền lợi và nghĩa vụ đã đề cập ở trong biển cả và vùng đặc quyền kinh tế, còn có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác để làm nhiệm vụ ngăn ngừa và trừng trị mọi vi phạm quy định về hải quan, tài chính, nhập cư, vệ sinh, y tế của nước mình.

Tàu chiến phải có nghĩa vụ tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến quyền đi qua không gây hại của tàu chiến trong lãnh hải. Nếu tàu chiến khi đi qua không gây hại trong lãnh hải của một quốc gia ven biển mà bất chấp luật lệ quy định đã được thông báo thì quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu chiến đó phải rời khỏi lãnh hải của mình ngay lập tức.

Quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của nhà nước dùng vào mục đích không thương mại vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 hay quy tắc khác của luật pháp quốc tế.

(Còn nữa)

BBP

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/tim-hieu-ve-luat-bien-viet-nam-6bd/