Tìm hướng phát triển bền vững ngành hàng tỷ đô

Ngành hàng sầu riêng đã và đang trở thành một trong những ngành hàng có tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu mạnh mẽ nhất của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả ấn tượng đã đạt được, mặt hàng sầu riêng Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, đòi hỏi phải tổ chức lại ngành hàng này để có thể phát triển bền vững.

Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của sầu riêng Việt Nam. Ảnh: Chu Khôi

Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của sầu riêng Việt Nam. Ảnh: Chu Khôi

Tăng trưởng nóng

Theo thống kê, năm 2015, nước ta mới chỉ có 32.000ha trồng sầu riêng. Đến năm 2024, diện tích trồng đã tăng lên trên 178.000ha (trung bình mỗi năm tăng 16.000ha). Đặc biệt, trong 5 năm trở lại đây, bất chấp rất nhiều khuyến cáo từ cơ quan chuyên môn, diện tích trồng sầu riêng vẫn tăng 2,38 lần so với mục tiêu phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt.

Có một thực tế là trong khi diện tích trồng sầu riêng tăng nhanh thì thị trường xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc (năm 2024 chiếm 97,2% và là nhà cung cấp sầu riêng lớn thứ hai cho Trung Quốc). Sau khi Nghị định thư xuất khẩu với Trung Quốc được ký kết vào tháng 7/2022, xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đã có bước nhảy vọt. Chỉ sau hai năm, kim ngạch năm 2024 đã cán mốc hơn 3 tỷ USD, đưa sầu riêng trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chiến lược.

Sự phụ thuộc quá lớn này là một trong những nguyên nhân biến động về kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam khi có bất kỳ sự biến động nào từ thị trường Trung Quốc. Ghi nhận trong 4 tháng đầu năm 2025, nhu cầu của thị trường Trung Quốc đã giảm 46,5% về lượng và 48,1% về giá trị.

Trước sự phát triển nóng của mặt hàng sầu riêng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cảnh báo, những mâu thuẫn đang ngày càng bộc lộ rõ rệt giữa tốc độ mở rộng sản xuất và khả năng tổ chức chuỗi cung ứng; giữa yêu cầu kiểm soát chất lượng của thị trường nhập khẩu và năng lực đáp ứng còn hạn chế trong nước. “Nếu không sớm tái cơ cấu, ngành hàng sầu riêng có nguy cơ đánh mất niềm tin từ khách hàng và làm tổn hại đến uy tín nông sản Việt Nam” - Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.

Kiểm soát chặt chẽ chất lượng để giữ thị trường xuất khẩu

Theo ông Nguyễn Thiên Văn, quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk, những thách thức và hạn chế của ngành sầu riêng hiện nay là tỷ lệ vùng trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số xuất khẩu còn thấp; ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất còn hạn chế, chất lượng chưa đồng đều; liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo, cơ sở hạ tầng sản xuất chưa đồng bộ; sản phẩm chủ yếu là chế biến thô, chưa nâng cao giá trị gia tăng; một số vi phạm về an toàn thực phẩm và gian lận trong sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đã ảnh hưởng đến thương hiệu sản phẩm.

Trong khi đó, yêu cầu kỹ thuật của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt. Yêu cầu kiểm tra nghiêm ngặt kim loại nặng và chất cấm (Cadimi và chất vàng ô) là các yêu cầu kỹ thuật phát sinh, còn lúng túng ban đầu, đòi hỏi toàn chuỗi giá trị sầu riêng phải có các hành động phù hợp để ứng phó. Ngoài ra, cơ sở pháp lý của nước ta chưa đủ mạnh để xử lý vi phạm trong việc cấp và sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Hệ quả là tình trạng giả mạo, mượn mã số, sử dụng mã số sai mục đích vẫn diễn ra, làm gia tăng rủi ro bị trả hàng, đình chỉ xuất khẩu và suy giảm uy tín quốc gia.

Để có thể phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng, ông Văn cho rằng, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục cho các loại trái cây, đặc biệt là sầu riêng, để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm an toàn thực phẩm, Trung tâm kiểm dịch thực vật và cơ sở chiếu xạ tại tỉnh Đắk Lắk để giám sát, kiểm soát dư lượng các hoạt chất.

Bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn xuất - nhập khẩu trái cây Chánh Thu cho rằng, sầu riêng Việt Nam hiện có chất lượng ngon, sạch, không hề thua kém Thái Lan hay Malaysia. Đây là kết quả của sự tham gia đồng bộ từ nhiều thực thể trong chuỗi giá trị, từ người nông dân, cán bộ kỹ thuật đến hệ thống thu mua và đóng gói. Tuy nhiên, để cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, ngoài yếu tố chất lượng và an toàn, sản phẩm còn cần được chuẩn hóa về mẫu mã, hình thức trình bày để tạo sự hấp dẫn từ cảm quan màu sắc đến thương hiệu.

Cần sớm ban hành quy trình về thiết lập, xây dựng và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói để phát triển và giữ vững thương hiệu cho ngành hàng sầu riêng. Ảnh: Bích Nguyên

Cần sớm ban hành quy trình về thiết lập, xây dựng và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói để phát triển và giữ vững thương hiệu cho ngành hàng sầu riêng. Ảnh: Bích Nguyên

Tăng tỷ trọng sản phẩm đông lạnh và chế biến sâu

Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, thị trường xuất khẩu chính của sầu riêng Việt Nam là Trung Quốc, do đó, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng khi có bất kỳ sự biến động nào từ thị trường Trung Quốc. Trong những năm gần đây, diện tích trồng và sản lượng sầu riêng tăng trưởng nóng, kéo theo sự mở rộng nhanh chóng quy mô xuất khẩu. Điều này cũng đặt ra áp lực lớn về kiểm soát chất lượng và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật ngày càng nghiêm ngặt từ thị trường Trung Quốc.

Theo ông Đạt, Tổng cục Hải quan Trung Quốc yêu cầu rất khắt khe về kiểm soát an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật đối với sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, sầu riêng xuất khẩu phải được phê duyệt mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói; không nhiễm sinh vật gây hại; đảm bảo an toàn thực phẩm về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, vàng ô, vi sinh vật, chất cấm khác.

Muốn phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng, ông Đạt cho rằng, trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Trước mắt là hoàn thiện cơ sở pháp lý, kỹ thuật và quy trình kiểm soát toàn chuỗi sản xuất - xuất khẩu; nâng cao năng lực kiểm soát an toàn thực phẩm, tăng cường phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế, tổ chức đoàn công tác sang Trung Quốc để đàm phán kỹ thuật, mở rộng thị trường và thúc đẩy xúc tiến thương mại.

Về lâu dài, cần cơ cấu lại ngành hàng theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm đông lạnh và chế biến sâu; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu quốc gia; nâng cấp hệ thống logistics, tổ chức lại chuỗi liên kết và nâng cao năng lực thực thi của doanh nghiệp và địa phương.

Còn ông Vũ Phi Hổ, đại diện Công ty Cổ phần sầu riêng Tây Nguyên (Sarita) kiến nghị, các cơ quan quản lý cần cập nhật thông tin, hướng dẫn đầy đủ, đặc biệt tại tỉnh Đắk Lắk - địa phương có diện tích sầu riêng lớn để đảm bảo vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Đồng thời, cần có biện pháp kiểm soát các cơ sở đóng gói, tránh để xảy ra tình trạng hàng không đủ điều kiện vẫn được xuất khẩu, làm ảnh hưởng đến uy tín của cả ngành.

Trước thực trạng có nhiều vi phạm liên quan đến mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói gây ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Dương Mah Tiệp đề nghị sớm ban hành quy định về chế tài xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói; ban hành tiêu chuẩn chất lượng trái cây Việt Nam nhằm đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn xuất khẩu cũng như sớm ban hành quy trình về thiết lập, xây dựng và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.

Bích Nguyên

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/tim-huong-phat-trien-ben-vung-nganh-hang-ty-do-post490716.html