Tin buồn cho quân đội Mỹ: Xe tăng của họ quá nặng
Quân đội Mỹ đã kết thúc quá trình thử nghiệm trong điều kiện thời tiết lạnh đối với xe tăng mới nhất của họ. Xe tăng Phiên bản 3 của Gói Nâng cấp Hệ thống M-1A2 — hay M-1A2SEPv3 — hoạt động tốt với nhiệt độ cận Bắc Cực của Alaska, các nhà thử nghiệm của lục quân Mỹ kết luận.
Một chiếc M-1A2SEPv3 khai hỏa trong quá trình thử nghiệm ở Alaska.
Liệu những chiếc xe tăng đó thực sự có thể đến được một chiến trường xa xôi như vậy trong thời chiến hay không là một câu hỏi khác vẫn chưa được giải đáp.
Theo người đứng đầu bộ phận thử nghiệm của Lầu Năm Góc, phiên bản mới này của xe tăng M-1 thực sự rất nặng.
Văn phòng Giám đốc, Bộ phận Kiểm tra và Đánh giá Hoạt động, hay DOT & E, cảnh báo trong một báo cáo hồi tháng Giêng rằng: "Việc tăng trọng lượng hạn chế khả năng vận chuyển chiến thuật của xe tăng".
M-1A2 là phiên bản mới nhất của loại xe tăng lần đầu tiên được đưa vào phục vụ trong quân đội Mỹ vào năm 1980. Trong phiên bản đầu tiên, M-1 có kíp lái 4 người trang bị một khẩu pháo chính 105 mm và nặng 60 tấn. Các phiên bản sau được bổ sung thêm lớp giáp tốt hơn và thay thế khẩu 105 ly bằng loại 120 ly. Chiếc xe tăng trở nên nặng hơn.
SEPv3 là loại nặng nhất. Với các tính năng mới bao gồm giáp bền hơn, thiết bị điện tử mới và hệ thống điện phụ trợ tốt hơn, v3 có trọng lượng gần 74 tấn. Thêm giáp bổ sung, hệ thống bảo vệ chủ động "đánh chặn rocket”, thêm cản trước chống mìn và chiếc xe tăng tăng trọng lượng lên đến mức đáng kinh ngạc là 92 tấn.
Không quá nặng để lục quân Mỹ vận chuyển — nhiều khả năng là bằng đường sắt — ít nhất một M-1A2SEPv3 đã được vận chuyển đến Alaska trong 17 tháng thử nghiệm thời tiết lạnh giá, kết thúc vào đầu tháng 5.
"SEPv3 đã đi qua hơn 3.200km trong điều kiện khắc nghiệt qua ba mùa thời tiết cận Bắc Cực, đã bắn hàng trăm phát đạn để đảm bảo độ chính xác trong điều kiện thời tiết cực lạnh và trải qua quá trình thử nghiệm hệ thống điện phụ trợ, cũng như nhiều hệ thống phụ khác”, Quân đội Mỹ báo cáo.
SEPv3 hoạt động được trong điều kiện thời tiết lạnh giá — điều kiện tiên quyết cho các hoạt động mùa đông ở Đông Âu, nơi khả dĩ nhất mà các lữ đoàn hạng nặng của Lục quân Mỹ có thể triển khai để chiến đấu chống lại kẻ thù công nghệ cao. Cụ thể là quân đội Nga.
Lục quân Mỹ sở hữu khoảng 6.000 chiếc M-1, trong đó có 1.500 chiếc M-1A2 thế hệ mới. Quân đội đã đặt hàng khoảng 300 chiếc M-1A2SEPv3 từ hãng General Dynamics. Mỗi chiếc xe tăng mới có giá khoảng 6 triệu USD. Về xe tăng, Mỹ chỉ đứng sau Nga với khoảng 13.000 chiếc T-72, T-80, T-90 và các loại khác.
Nhưng xe tăng của Nga nhẹ hơn xe tăng của Mỹ. Một chiếc T-90 chỉ nặng 53 tấn. Điều đó giúp việc di chuyển đến chiến trường dễ dàng hơn.
Quân đội Mỹ sẽ dựa vào một số phương thức vận tải để đưa một lữ đoàn thiết giáp được trang bị M-1A2SEPv3 từ căn cứ quê nhà đến chiến trường châu Âu. Các xe tăng sẽ đi tàu hỏa từ căn cứ đến một cảng. Một tàu vận tải sẽ vận chuyển chúng ra nước ngoài rồi lại lên tàu hỏa.
Càng gần khu vực chiến đấu, nhân viên hậu cần sẽ chuyển xe tăng từ tàu hỏa sang xe vận chuyển thiết bị hạng nặng — về bản chất, là những chiếc xe tải thực sự lớn. Thậm chí gần trận giao tranh, xe tăng sẽ xuống xe tải và tự di chuyển.
Trong khi di chuyển, đội sẽ dựa vào một hệ sinh thái gồm các phương tiện hỗ trợ để duy trì tiến trình. Các phương tiện phục hồi xe thu hồi các xe tăng bị mắc kẹt. Các cầu nối bọc thép để giúp xe tăng vượt qua những con sông hẹp và những khoảng trống không có cầu cố định phù hợp.
Đây là vấn đề. “Không thể vận chuyển M1A2SEPv3 bằng các phương tiện phục hồi hiện tại, cầu chiến thuật hoặc xe vận chuyển thiết bị hạng nặng”, theo DOT & E.
Lục quân Mỹ được cho là không đồng ý với đánh giá này. Nhưng không có gì phải bàn cãi rằng M-1 ngày càng nặng và ngày càng nặng hơn — và điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến khả năng di chuyển của nó trước và trong trận chiến.
Thật vậy, phiên bản tiếp theo của M-1 — SEPv4, dự kiến ra mắt vào năm 2025 — bổ sung thêm nhiều thiết bị điện tử mới hơn và có thể nặng hơn SEPv3.