Tình huống khẩn cấp, Thủ tướng được áp dụng biện pháp chưa có trong luật
Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp trao quyền cho Thủ tướng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh được áp dụng biện pháp chưa có trong luật trong tình huống cần thiết.
Chiều 27/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Cùng phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo thẩm tra.

Chiều 27/5/2025, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Ảnh: VPQH
Bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý linh hoạt, kịp thời tình huống khẩn cấp
Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang, việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp là cần thiết nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, quan điểm của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu cấp bách trong ứng phó với các tình huống khẩn cấp có thể phát sinh trong thực tiễn.
Tờ trình nêu rõ, dự thảo Luật gồm 6 chương, 42 điều. Trong đó, tập trung đề xuất các quy định đáng chú ý ở các chương II, III, IV. Cụ thể, tại Chương II gồm 4 điều, quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố, gia hạn, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Theo đó, căn cứ vào diễn biến thực tế của các loại hình thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề xuất của các bộ, ngành hoặc địa phương, Thủ tướng Chính phủ có thể trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp. Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp ngay, Thủ tướng Chính phủ báo cáo Chủ tịch nước để xem xét, quyết định công bố tình trạng khẩn cấp trong phạm vi cả nước hoặc địa phương cụ thể.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang. Ảnh: VPQH
Chương III gồm 12 điều, quy định hệ thống các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp theo từng loại hình cụ thể như: thảm họa lớn, thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ, hạt nhân, dịch bệnh nguy hiểm; an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; quốc phòng. Đáng chú ý, để bảo đảm khả năng ứng phó linh hoạt, chủ động, kịp thời, dự thảo quy định: trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng biện pháp chưa được quy định trong pháp luật hiện hành và báo cáo cơ quan có thẩm quyền trong thời gian gần nhất. Quy định tương tự cũng được áp dụng đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi quản lý.
Chương IV gồm 8 điều, quy định tổ chức thi hành tình trạng khẩn cấp; điều động lực lượng vũ trang; sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; xử lý người bị tạm giữ; lực lượng thi hành; áp dụng pháp luật về điều kiện bất khả kháng. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ có thể đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định điều động lực lượng đến địa bàn có tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, dịch bệnh để phối hợp với các lực lượng tại chỗ xử lý tình huống.
Tập trung làm rõ khái niệm, điều kiện, thẩm quyền
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, qua nghiên cứu dự thảo, Ủy ban cơ bản tán thành với nội dung trong Tờ trình, đồng thời đề nghị Quốc hội tập trung thảo luận một số vấn đề trọng tâm.
Hồ sơ dự án Luật đã được cơ quan soạn thảo chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV. Dự thảo Luật đã cơ bản bám sát chủ trương, đường lối của Đảng; phù hợp với Hiến pháp, cơ bản bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới. Ảnh: VPQH
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Lê Tấn Tới, Luật này không thay thế các luật chuyên ngành đang điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, việc xác định tình trạng khẩn cấp trong các Luật chuyên ngành chưa đầy đủ, cụ thể, do đó cần nghiên cứu, quy định về xác định tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền, biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp trong Luật này cho đầy đủ, phù hợp, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp.
Về giải thích từ ngữ tại Điều 2, Ủy ban cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ tính chất và “ngưỡng” chuyển trạng thái; kiến nghị bổ sung khái niệm an ninh phi truyền thống, đồng thời cụ thể hóa tiêu chí “thảm họa lớn” để thuận lợi trong áp dụng và kiểm soát phạm vi điều chỉnh.
Về thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp tại Điều 9, Ủy ban đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa các căn cứ để ban bố, đồng thời có ý kiến đề nghị chuyển nội dung khoản 6 về trách nhiệm từ Bộ Tư pháp sang Bộ Ngoại giao để bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước và thực tiễn thi hành pháp luật quốc tế.
Về hệ thống các biện pháp áp dụng từ Điều 13 đến Điều 16 trong Chương III, Ủy ban đề nghị tiếp tục chỉnh lý nội dung để bảo đảm thống nhất giữa cách phân loại tình trạng khẩn cấp và nhóm biện pháp tương ứng; tán thành với đề xuất trao quyền cho Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được áp dụng biện pháp chưa được pháp luật hiện hành quy định, tuy nhiên cần quy định rõ trách nhiệm báo cáo và giám sát.
Theo tờ trình, việc triển khai xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về tình trạng khẩn cấp. Qua đó, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.