Tinh thần Việt

Khi nói đến tinh thần, dường như ai cũng hiểu đó là một phạm trù đối lập với vật chất, thể xác. Tinh thần là phi vật chất, phi vật thể. Đó là cái đã trở thành định kiến, thành 'chân lý' trong nhận thức của nhiều người.

Giống như cần có nhận thức mới về nội dung và hình thức, rằng hình thức cũng là nội dung, là một bộ phận cấu thành chặt chẽ của sự vật, tôi cho rằng tinh thần là một dạng vật chất đặc biệt, một dạng năng lượng đặc biệt của một con người, của một dân tộc. Nó được sản sinh, bồi đắp trong quá trình hình thành, phát triển của con người, của dân tộc và có vai trò quyết định trong sự phát triển của con người ấy, dân tộc ấy. Nó làm nên sự tương đồng nhưng cũng là cái làm nên nét khu biệt giữa con người này với con người khác, dân tộc này với dân tộc khác. Và tinh thần là bất diệt, đúng như thi hào Nguyễn Du viết: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Ai đã đọc “Đa-ghét-xtan của tôi” (Gamzatop) hẳn nhớ câu này: “Tâm hồn tôi còn ẩn náu sâu hơn, kín đáo hơn những cái xương, cột sống, lá phổi của tôi. Những tia sáng của thơ ca đã rọi chiếu qua tôi và mỗi rung động nhỏ trong tâm hồn tôi trở thành cái mọi người đều biết”.

*
* *

Ngày còn trẻ, chưa có trải nghiệm thực tế, tôi không thể hiểu câu nói của Descartes: “Vui mừng tưởng tượng thường đáng giá hơn đau buồn thực sự”. Đến khi từng trải rồi tôi mới nhận thấy cái phi lý trong những điều có lý, cái thật sự có lý trong những điều tưởng như mơ hồ, phi lý. Vào bộ đội, nghe câu cửa miệng và thực thấy: “Tư tưởng không thông, vác bình tông cũng không nổi”; được chứng kiến tinh thần chiến đấu của đồng đội, có khi chỉ năm, bảy người mà đẩy lui cả đại đội địch, tôi mới thấm thía giá trị to lớn của tinh thần.

Cũng những ngày còn trẻ, ngồi trên ghế đại học, chỉ được học những Socrates, Platon, Kant, Nietzsche, Lão Tử, Khổng Tử... Rồi lại nghe một học giả người Pháp tên là Léopold-Michel Cadìere (1869 - 1955) khẳng định rằng: “Không có triết học Việt Nam. Cùng với toàn bộ văn hóa Trung Quốc, dân Việt đã thâu nhận lấy những nguyên lý triết học lâu đời được người Tàu chấp nhận... Các học thuyết trong kinh điển truyền sang thế nào, thì nho sĩ Việt Nam chấp nhận như thế”.

Cái ý kiến hời hợt và sặc mùi thực dân ấy, theo tôi biết, nó ảnh hưởng không ít đến giới học thuật nước nhà!

*
* *

Từ 600 năm trước, Nguyễn Trãi đã viết trong “Đại cáo Bình Ngô”, một tuyên ngôn độc lập về lãnh thổ, về văn hóa: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...”.

Tìm học sâu hơn trong di cảo cha ông, rộng hơn trong dân gian, giữa ruộng đồng, tôi nhận được nhiều bài học quý giá, cao minh. Không phải cái gì trong đời này cũng lấy chữ nghĩa ra để giải thích được. “Trời sinh ra thế” là một ngụ ngôn sâu sắc!

Hồi nhỏ đi chăn trâu giữa mùa gió rét, chúng tôi ngồi thu lu trong cái tơi, cửa tơi tránh chiều gió thổi nên rất hiểu câu “gió chiều nào che chiều ấy”. Khi đi học, thầy giảng: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; “Gió chiều nào che chiều ấy” là tư tưởng cơ hội, cần phê phán. Có lần tôi hỏi một người Mỹ về tính thực dụng. Ông ta nói: “Thực dụng có gì xấu đâu. Việt Nam còn thực dụng bằng mấy Mỹ”, và ông dẫn hai câu tục ngữ trên.

Đọc “Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu” của Cao Xuân Huy (1900 - 1983) có đoạn viết: “Tôi nghĩ rằng tinh thần lập quốc của chúng ta chính là cái tinh thần nhu đạo... Dân tộc ta đã thắng được cái hoàn cảnh thiên nhiên (khắc nghiệt) ấy, đã thắng được cái sức đồng hóa kinh khủng của một dân tộc khổng lồ là nhờ vào đâu? Là nhờ ở dân tộc ta có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động như nước. Sức sống của nước là ở nguồn, sức mạnh của nước là ở chỗ rất nhiều hạt nhỏ cố kết lại với nhau một cách mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, có thể uốn theo đường cong, đường thẳng, chỗ lồi, chỗ lõm của đối tượng, đối phương, quân địch để đánh phá nó... Nước lại còn dễ tính đến nỗi, khi người ta rót nó vào chai, thì nó ngoan ngoãn rập khuôn theo hình dạng của chai, rót vào bầu, vào ấm cũng vậy. Đó không phải vì nó không có cá tính. Trái lại, đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó, mà chính cái khả năng thích ứng đó là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta”, tôi ngẫm lại Nguyễn Đình Thi trong bài nói chuyện tại Ngày hội sinh viên năm 1944: “Ca dao Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần ham sống, ham đấu tranh, vui vẻ, tế nhị, có duyên nhưng cũng không kém phần dồi dào tình cảm, mạnh mẽ sức lực, nảy nở tự do để đón ánh sáng trời hòa hợp với cỏ cây, hoa lá. Nó như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh cho thế hệ tương lai những hoài bão lớn lao về cuộc sống, thiên nhiên và con người” (“Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích”).

*
* *

Tinh thần Việt, như Nguyễn Đình Thi tổng kết, trước hết là lòng ham sống, yêu cuộc đời, thiên nhiên, cây cỏ. Người chết, người ta không nỡ gọi chết mà dân gian gọi là “hóa”. Hóa trước hết là không muốn chết. Trong từ “hóa” ấy có nhận thức biện chứng sự vật không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, chỉ biến từ dạng này, sang dạng khác. Những anh hùng, hiền thánh “hóa” đi sẽ thành anh linh sông núi, thành tinh thần Việt. Người chết, dẫu lên tiên - khi được giáng trần về hạ giới vẫn hạnh phúc, vẫn đáp ứng cái lòng mong của người Việt, dù chỉ một lần như trong truyện “Người con gái Nam Xương”. Cái câu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” về mặt nào đó là siêu vật lý, là nhận thức siêu việt của người Phương Đông về thế giới, là vũ trụ quan. Cái ham sống, yêu sống này sinh ra tinh thần lạc quan: “Đừng có chết mất thì thôi/ Sống thì có lúc no xôi chán chè”, “Non cao cũng có đường trèo/ Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi”...

Tinh thần Việt, là lòng yêu nước yêu nhà, yêu người như mật quánh, như mây chằng. Ngẩng lên có non cao, trông xa thì sông rộng. Cái cao rộng nhất là cha, là mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Trên đời không có gì quý bằng con: “Có vàng vàng chẳng hay phô/ Có con con nói trầm trồ mẹ nghe”. Người yêu người, vợ thương chồng cảm động: “Củi than nhem nhuốc với tình/ Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên; Đi đâu cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”, “Yêu nhau quán cũng như nhà/ Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói cao”... Yêu nhà tức là yêu nước, yêu nước là yêu nhà vì người Việt hiểu rõ, nước mất thì nhà tan. Cái câu “Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” của Trần Bình Trọng là nỗi gắn bó da diết với nước nhà của muôn người, muôn đời.

Từ yêu nhà, yêu nước rất cao mà sinh tinh thần độc lập, tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam đã chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng hung bạo đến đâu. Và để có được chiến thắng, cùng với quyết tâm, người Việt Nam biết lấy sự kết đoàn làm trọng, làm sự sống còn: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

Tinh thần Việt, là sự coi trọng thực tiễn, óc thực tế như đã nói ở trên, là coi trọng sự học trong thực tế, khao khát cầu thị: “Trăm nghe không bằng một thấy”, “Trăm hay không bằng tay quen”, “Học ăn học nói học gói học mở”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “Ở nhà nhất mẹ nhì con/ Ra đường còn lắm kẻ giòn hơn ta”...

Tinh thần Việt, là nhân ái thiết tha, bao dung rộng lớn: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại”... Bởi thế, trong chiến tranh, Việt Nam đã nhiều lần tha bổng hàng binh, bại binh, thậm chí còn cấp thuyền lương cho họ về nước. Bởi thế, mới thêm bạn bớt thù, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai..., được tất cả người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên và thế giới tìm thấy ở đây một dân tộc thân thiện, yêu chuộng hòa bình, hữu nghị.

Tinh thần Việt, là đề cao nhân phẩm, danh dự lên trên hết thảy: “Chết trong hơn sống đục”, “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà”, “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Đói miếng hơn tiếng đời”... Tinh thần Việt là sự bền bỉ: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.

Tinh thần Việt, là tinh thần trọng dân, vì dân. Tinh thần ấy không phải bây giờ mới có. Bao nhiêu vị vua lo cho dân, lo cho nước thì chúng ta mới có cơ đồ ngày nay. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” chép rõ câu nói của một nhà vua phong kiến: “Người làm chính trị không thể trái ý muốn của dân”.

Tinh thần Việt, còn ở trong hàng nghìn trang sách của cha ông mà ta chưa biết tới, chưa khai thác hết, ở trong sự sống của nhân dân và lưu truyền bất tận.

*
* *

Ngày nhỏ, đọc truyện “Thánh Gióng”, tôi chỉ biết khâm phục sự anh hùng cứu nước. Yêu nước, cứu nước - cái sợi chỉ đỏ của tinh thần Việt ấy xuyên qua mọi thế hệ và cao vượt chín tầng mây như chí khí Thánh Gióng trong câu đối được khắc ở đền thờ làng Phù Đổng: “Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn/ Đằng vân do hận cửu thiên đê” ("Phá giặc, lên ba hiềm vẫn muộn/ Cưỡi mây, chín lớp hận chưa cao").

Phải đến tuổi ngoài “tri thiên mệnh” tôi mới sực thấy cái dấu chân khổng lồ mà người mẹ nghèo dẫm lên để sinh ra Thánh Gióng. Phải chăng dấu chân không lồ ấy chính là biểu tượng của sự bình đẳng, vị tha đến vô cùng của Tinh thần Việt!

Nguyễn Sĩ Đại

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/tinh-than-viet-691977.html