Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị giải quyết đơn công dân theo thẩm quyền

Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Hà Nội vừa có văn bản gửi tới TAND tối cao đề nghị giải quyết theo thẩm quyền đơn của anh Đồng Thanh Bằng, trú tại địa chỉ xóm Chợ, thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Trong các ngày 19 và 20/9/2022, TAND huyện Hiệp Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn. Nguyên đơn là bà Tạ Thị Hồng Điệp và bị đơn là ông Đồng Văn Bảng. Có 14 tổ chức và cá nhân là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, trong đó có anh Đồng Thanh Bằng là con đẻ của ông Đồng Văn Bảng và bà Tạ Thị Hồng Điệp.

Phiên tòa làm rõ về giải quyết công nợ cùng tài sản liên quan đến hai thửa đất số 238 và 216. Thửa đất số 238 thuộc tờ bản đồ số 10, diện tích 667,4m2 (gồm 300m2 đất ở và 367,4m2 đất trồng cây lâu năm), được UBND huyện Hiệp Hòa cấp Giấy chứng nhận QSD đất ngày 30/6/2014. Còn thửa đất số 216 thuộc tờ bản đồ số 10, diện tích 458,8m2 được UBND huyện Hiệp Hòa cấp Giấy chứngnhận QSD đất ngày 18/12/2014. Cả hai thửa đất này đều có địa chỉ tại thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa và đều đứng tên ông Bảng và bà Điệp.

Ông Bảng và bà Điệp kết hôn năm 1988, quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn nên năm 2021 TAND huyện Hiệp Hòa đã xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa hai người. Đến nay, vướng mắc giữa hai ông bà là phần tài sản chung.

Tại phiên tòa, bà Điệp đề nghị tòa án xác định hai thửa đất 238 và 216 là tài sản chung của bà và ông Bảng, yêu cầu chia đôi.

Ông Bảng yêu cầu xác định hai thửa 238 và 216 là tài sản chung của 5 người (gồm cụ Vịnh, cụ Tiền là bố mẹ đẻ ông Bảng cùng ông Bảng, bà Điệp và con trai là Bằng) có tiêu chuẩn ruộng được chia năm 1991. Anh Bằng có yêu cầu độc lập đề nghị xác định trong hai thửa đất 238 và 216 có 1/5 là của anh và yêu cầu trả cho anh. Ngoài ra còn có yêu cầu độc lập khác của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đồng Thị Điều (con gái của hai cụ Vịnh, Tiền và là chị gái của ông Bảng). Bà Điều cho rằng hai thửa đất 238 và 216 có phần di sản của hai cụ Vịnh, Tiền nên đề nghị giao phần này cho bà Vượng là chị gái quản lý.

Tại Bản án số: 80/2022/HNGĐ-ST, ngày 20/9/2022, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định, nguồn gốc hình thành hai thửa đất 238 và 216 gồm một phần là diện tich đất nông nghiệp của gia đình ông Bảng được giao năm 1991 gồm 5 khẩu là hai cụ Vịnh, Tiền, ông Bảng, bà Điệp và anh Bằng.

Sau khi được giao ruộng, gia đình ông Bảng lại đổi đất nông nghiệp của gia đình ở nơi khác với các ông, bà Xa, Phúc, Hậu, Xuất, Đang và mua của anh Thắng để hợp thành hai thửa 238 và 216 như hiện tại.

Năm 1993, khi thôn bán đất trái thẩm quyền thì gia đình ông Bảng đã mua lại của thôn hai thửa đất này. Tuy nhiên, việc mua đất của thôn trên chính thửa đất gia đình được giao và đổi cho các hộ, thôn không làm thủ tục thu hồi diện tích đất đã giao cho gia đình nên quyền sử dụng đất vẫn là của các thành viên hộ gia đình ông Bảng.

Từ đó, TAND huyện Hiệp Hòa đi đến quyết định, xác định thửa đất 238 và 216 là tài sản sở hữu chung của hộ gia đình ông Đồng Văn Bảng. Về thửa đất số 238 được TAND huyện chia làm 3 phần. Cụ thể, tòa giao cho bà Điệp 238m2 đất, giao cho ông Bảng 229,4m2 đất và giao cho anh Bằng (con đẻ của ông Bảng và bà Điệp) 200m2 đất trồng cây lâu năm.

Tại thửa đất số 216, tòa án cho rằng đây là phần di sản của cụ Vịnh, cụ Tiền nên giao toàn bộ diện tích 458,7m2 cho bà Đồng Thị Vượng là đại diện những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Vịnh, cụ Tiền quản lý.

Tòa án cho rằng số tiền công nợ, ông Bảng có trách nhiệm trả cho bà Điệp 111.687.000 đồng.

Tuy nhiên, ông Bảng, bà Điệp và bà Điều không đồng ý với phán quyết này nên làm đơn kháng cáo.

Bản án của TAND tỉnh Bắc Giang công nhận, trong thửa 238 và 216 mang tên ông Bảng, bà Điệp có thửa đất 221 được UBND huyện Hiệp Hòa cấp “sổ đỏ” năm 1998 thuộc sở hữu của 5 người là cụ Vịnh, cụ Tiền, ông Bảng, bà Điệp và anh Bằng.

Bản án của TAND tỉnh Bắc Giang công nhận, trong thửa 238 và 216 mang tên ông Bảng, bà Điệp có thửa đất 221 được UBND huyện Hiệp Hòa cấp “sổ đỏ” năm 1998 thuộc sở hữu của 5 người là cụ Vịnh, cụ Tiền, ông Bảng, bà Điệp và anh Bằng.

Ngày 8/5/2023 TAND tỉnh Bắc Giang đã mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn. Khác với quan điểm của TAND huyện Hiệp Hòa, TAND tỉnh cho rằng toàn bộ hai thửa đất số 238 và thửa đất số 216 là tài sản chung của ông Bảng, bà Điệp.

Căn cứ để TAND tỉnh đưa ra quyết định trên là Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện Hiệp Hòa cấp năm 1998. Giấy này có tổng diện tích 2.191m2, được hình thành từ 13 thửa đất, trong đó có thửa số 221, tờ bản đồ số 16, rộng 204m2. Đây là tài sản chung của 5 người là cụ Vịnh, cụ Tiền, ông Bảng, bà Điệp và anh Bằng.

TAND tỉnh Bắc Giang cho rằng thửa đất số 238 và thửa đất số 216 là tài sản chung của ông Bảng, bà Điệp. Còn cụ Vịnh, cụ Tiền và anh Bằng vẫn có quyền lợi về đất, vì vẫn nằm trong các thửa đất đã được UBND huyện Hiệp Hòa cấp Giấy chứng nhận QSD năm 1998. Cách chia tách này tưởng như các thửa 238 và 216 nằm riêng và không liên quan gì đến 13 thửa đất thể hiện trong Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện Hiệp Hòa cấp năm 1998.

Trên thực tế, ngay trong Bản án số: 23/2023/HNGĐ-PT, ngày 8/5/2023 của TAND tỉnh Bắc Giang đã thể hiện rõ thửa số 221 diện tích 204m2 nằm trong Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện Hiệp Hòa cấp năm 1998 thuộc sở hữu của 5 người là cụ Vịnh, cụ Tiền, ông Bảng, bà Điệp và anh Bằng nhưng bước sang năm 2014 đã bị UBND huyện Hiệp Hòa cắt đi và chuyển sang diện tích cấp giấy chứng nhận QSD đất mới là hai thửa 238 và thửa 216 mang tên ông Bảng, bà Điệp.

Như vậy, thửa số 221 khi còn là một trong 13 thửa đất nằm trong Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện Hiệp Hòa cấp năm 1998 thì được HĐXX công nhận là tài sản của 5 người. Nhưng khi nó được gắn vào và hợp với các thửa đất khác để hình thành lên diện tích hai thửa đất mới là 238 và thửa 216 lại được HĐXX nhận định là sở hữu riêng của ông Bảng, bà Điệp.

Văn bản của TAND cấp cao tại Hà Nội gửi tới TAND tối cao.

Văn bản của TAND cấp cao tại Hà Nội gửi tới TAND tối cao.

Trong đơn gửi tới các cơ quan chức năng, anh Đồng Thanh Bằng cho rằng có sự bất hợp lý, bởi quá trình lấy 204m2 đất thuộc thửa số 221, tờ bản đồ số 16 để “đắp” sang hai thửa mới là 238 và 216 nhưng UBND huyện Hiệp Hòa và các bên liên quan đã không làm thủ tục biến động đất đai và cũng không hỏi ý kiến chủ tài sản và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Bằng cùng các đồng thừa kế khác là con của hai cụ Vịnh và Tiền (cụ Vịnh chết năm 1997, cụ Tiền chết năm 2012) xem có đồng ý cho cắt đất hay không.

Từ những lý do trên khiến anh Bằng làm đơn đề nghị Giám đốc thẩm gửi tới TAND cấp cao tại Hà Nội.

Mới đây, ngày 22/7/2024, TAND cấp cao tại Hà Nội có văn bản số: 1177/PC-TACC gửi tới TAND tối cao với nội dung: “TAND cấp cao tại Hà Nội nhận được đơn của ông Đồng Thanh Bằng ngày 14/6/2024 do TAND tối cao chuyển đến, địa chỉ: Xóm Chợ, thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, về việc không đồng ý với Thông báo giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm số 13/2024/TB-TA ngày 30/01/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội.

Sau khi nghiên cứu đơn của ông Đồng Thanh Bằng, TAND cấp cao tại Hà Nội chuyển đơn nêu trên đến TAND tối cao để xem xét và giải quyết theo thẩm quyền”.

Khắc Hạnh

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/dan-nguyen/toa-an-nhan-dan-cap-cao-tai-ha-noi-de-nghi-giai-quyet-don-cong-dan-theo-tham-quyen-58331.html