TỔNG THUẬT: Tọa đàm về 'Tăng cường hiệu quả quản lý thuế đối với thương mại điện tử'

Tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, đang diễn ra Tọa đàm với chủ đề 'Tăng cường hiệu quả quản lý thuế đối với thương mại điện tử' nhằm thảo luận về những giải pháp nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này.

Tọa đàm về 'Tăng cường hiệu quả quản lý thuế đối với thương mại điện tử' - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Tọa đàm về 'Tăng cường hiệu quả quản lý thuế đối với thương mại điện tử' - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Tham gia tọa đàm có sự hiện diện của các đại biểu uy tín và giàu kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử (TMĐT) và quản lý thuế: Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân thuộc Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính; ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông; bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương; TS. Trần Mạnh Nam, Giám đốc Khối Doanh nghiệp của VNPAY; PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế, nguyên Trưởng Khoa Tài chính Quốc tế, Học viện Tài chính.

Doanh thu thuế từ TMĐT tăng đều qua các năm: 83.000 tỷ đồng (2022), 97.000 tỷ đồng (2023) và chỉ trong 7 tháng đầu năm 2024 đã đạt hơn 78.000 tỷ đồng. Sự gia tăng mạnh mẽ này không chỉ đến từ các doanh nghiệp trong nước, mà còn từ các nền tảng quốc tế như Google, Facebook và Amazon.

Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế đã chủ động triển khai nhiều biện pháp như xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thuế, phối hợp với các bộ, ngành trong việc chia sẻ dữ liệu và kết nối với UBND các tỉnh, thành phố. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu từ các ngành như ngân hàng và viễn thông đã được đồng bộ, giúp công tác quản lý và thu thuế đạt hiệu quả cao hơn.

Tuy nhiên, TMĐT với tính linh hoạt và giao dịch xuyên biên giới vẫn đặt ra những thách thức mới. Do đó, tọa đàm sẽ là dịp để lắng nghe các đề xuất từ các chuyên gia nhằm tối ưu hóa giải pháp quản lý thuế và thúc đẩy sự phát triển bền vững của TMĐT.

Bà Nguyễn Thị Lan Anh: Ngành Thuế đã đề xuất giải pháp sửa đổi chính sách thuế một cách đồng bộ, thống nhất - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bà Nguyễn Thị Lan Anh: Ngành Thuế đã đề xuất giải pháp sửa đổi chính sách thuế một cách đồng bộ, thống nhất - Ảnh VGP/Nhật Bắc

6 giải pháp lớn của ngành thuế

MC: Để mở đầu chương trình tọa đàm, xin được gửi câu hỏi đầu tiên tới đại diện Tổng cục Thuế.

Thưa bà Nguyễn Thị Lan Anh, sự tăng trưởng nhanh của thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian qua là điều đáng mừng nhưng cũng đặt ra những thách thức mới đối với công tác quản lý thuế. Xin bà có thể chia sẻ khái quát những giải pháp mà Tổng cục Thuế đã triển khai nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử?

Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân:

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, thời gian qua Tổng cục Thuế đã và đang thực hiện các giải pháp đồng bộ, thống nhất như sau:

Thứ nhất là Tổng cục Thuế đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ hướng dẫn người nộp thuế tham gia hoạt động kinh doanh TMĐT thực hiện kê khai, nộp thuế theo quy định pháp luật. Ngoài ra, Tổng cục Thuế cũng đã phối hợp với các sàn trong nước, các nền tảng TMĐT nước ngoài tuyên truyền về nghĩa vụ thuế của các tổ chức, các nhân kinh doanh trên các nền tảng.

Thứ hai là ngành Thuế tiếp tục cung cấp các dịch vụ thuế điện tử để hỗ trợ việc kê khai, nộp thuế ở mức 4.0, bảo đảm người nộp thuế có thể thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, cung cấp thông tin hoàn toàn theo hình thức điện tử.

Đặc biệt, trong thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ đưa vào vận hành Cổng thông tin điện tử dành cho các cá nhân, hộ kinh doanh phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT có thể thực hiện các nghĩa vụ thuế một cách thuận tiện. Đây cũng là kênh thông tin để cho người nộp thuế thực hiện theo đúng quy định pháp luật.

Ngoài ra, nhằm hỗ trợ hiệu quả các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh TMĐT thực hiện nghĩa vụ thuế theo đúng quy định, Tổng cục Thuế đã ban hành "Thư ngỏ" gửi đến các tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT tại Việt Nam để trao đổi việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với hoạt động TMĐT và kinh doanh trên nền tảng số và cung cấp bộ tài liệu hướng dẫn về việc đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế và danh sách email của các cơ quan thuế để người nộp thuế chủ động liên hệ khi có vướng mắc.

Thứ ba, ngành Thuế đã đề xuất giải pháp sửa đổi chính sách thuế một cách đồng bộ, thống nhất, không những thống nhất trong ngành thuế mà còn thống nhất trong các Bộ, ngành có liên quan đến hoạt động TMĐT. Đó là chúng tôi đề xuất bổ sung quy định pháp luật theo hướng tăng cường trách nhiệm của tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, yêu cầu sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến có trách nhiệm khấu trừ khai thuế thay, nộp thuế thay cho các cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT. Giải pháp này góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm đầu mối kê khai thuế, đồng thời xét về tổng thể sẽ làm giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho toàn xã hội do thay vì hàng chục nghìn cá nhân trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế thì chỉ cần một đầu mối là sàn giao dịch thương mại điện tử khai, nộp thuế thay.

Ngoài ra, các sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến nắm được đầy đủ các thông tin về người mua; thông tin về các giao dịch bán hàng thành công; thông tin về doanh thu, chi phí thông qua sàn của các tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ, do đó sàn TMĐT có thể thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho các cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ thông qua sàn một cách dễ dàng.

Bà Nguyễn Thị Lan Anh cho biết, ngành Thuế sẽ tiếp tục làm giàu cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bà Nguyễn Thị Lan Anh cho biết, ngành Thuế sẽ tiếp tục làm giàu cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Thứ tư là ngành Thuế sẽ tiếp tục làm giàu cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT, thu thập thông tin từ nhiều nguồn, đó là thông tin do sàn cung cấp, thông tin do các nền tảng xuyên biên giới cung cấp, thông tin thu thập được qua công tác kiểm tra, thông tin thu thập trên internet, thông tin kết nối chia sẻ từ các bộ ngành.

Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện khai thác, xử lý thông tin để rà soát người nộp thuế đưa vào diện quản lý, yêu cầu kê khai phù hợp thực tế, điều chỉnh doanh thu hoặc xử lý truy thu.

Thứ năm là ngành Thuế sẽ xây dựng mô hình quản lý rủi ro đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử, theo đó áp dụng trí tuệ nhận tạo (AI) để xử lý dữ liệu lớn, đưa ra các cảnh báo đối với trường hợp có rủi ro về thuế.

Thứ sáu là sẽ tiếp tục triển khai công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn ngành, trong các tổ chức, các nhân kinh doanh thương mại điện tử; doanh nghiệp là chủ sàn kinh doanh thương mại điện tử; các đơn vị vận chuyển; trung gian thanh toán…

Và một giải pháp cuối cùng mà tôi cho rằng rất quan trọng đó là ngành Thuế sẽ phối hợp với bộ ngành chia sẻ, kết nối dữ liệu phục vụ quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử theo nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Bộ Công an cùng với cơ quan Thuế sẽ rà soát và đồng nhất Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Cơ sở dữ liệu mã số thuế; Bộ Công Thương sẽ cung cấp dữ liệu về sàn giao dịch TMĐT, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ chia sẻ dữ liệu về các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, quảng cáo, phát thanh truyền hình; Ngân hàng Nhà nước sẽ thông tin về dòng tiền thanh toán, về tài khoản cá nhân.

Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử duy trì từ 20-25% một năm

MC: Thưa bà Lại Việt Anh, sau một năm triển khai Chỉ thị số 18 ngày 30/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử và chống thất thu thuế, những điểm nào được ghi nhận trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng dữ liệu và hiệu quả quản lý thuế trong lĩnh vực này? Bà đánh giá thế nào về tăng trưởng của thương mại điện tử ở Việt Nam thời gian qua, những đóng góp với nền kinh tế?

Bà Lại Việt Anh: Quy mô thị trường TMĐT bán lẻ đã đạt mức 20,5 tỷ USD - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bà Lại Việt Anh: Quy mô thị trường TMĐT bán lẻ đã đạt mức 20,5 tỷ USD - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công Thương:

TMĐT Việt Nam phát triển rất nhanh trong vòng 10-15 năm qua, đặc biệt 5 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng duy trì từ 20-25% một năm, cách đây khoảng 10 năm, quy mô thị trường TMĐT bán lẻ của Việt Nam vào thời điểm đó đạt khoảng 2,2 tỷ USD, nhưng đến năm 2023, theo thống kê, đánh giá của Bộ Công Thương thì quy mô thị trường TMĐT bán lẻ đã đạt mức 20,5 tỷ USD, chiếm 8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn quốc. Tỷ lệ này đang được dự đoán đạt 10% vào năm 2025.

Có thể nói, TMĐT phát triển nhanh và mạnh đã đóng góp rất tích cực cho việc phát triển mô hình thương mại khá hiện đại trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn COVID-19 khi giãn cách xã hội và giảm sự tiếp xúc giữa các đối tượng. Đây là phương thức rất hiệu quả để có thể phân phối hàng hóa, dịch vụ đến với người tiêu dùng cuối. Đồng thời, đây cũng là kênh để các doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ có thể tham gia kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao thu nhập cũng như tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng nhanh như thế, đặt ra bài toán phải phát triển bền vững. Đó là bảo đảm được sự cạnh tranh lành mạnh cũng như bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia thị trường, trong đó có chủ đề chúng ta bàn hôm nay, đó là việc tuân thủ nghĩa vụ về thuế.

Để nâng cao hiệu quả quản lý thuế, một trong những mấu chốt là việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý một cách toàn diện và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý.

Trên môi trường điện tử, hoạt động quản lý của chúng ta phải tận dụng tối ưu những công cụ trên môi trường trực tuyến, điện tử. Thực hiện Chỉ thị số 18/CT-TTg, trong hơn 1 năm qua, Bộ Công Thương đã phối hợp rất chặt với các cơ quan liên quan như Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông để ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển cơ sở dữ liệu phục vụ cho quản lý thuế.

Chúng tôi đã xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung về TMĐT trên Cổng Thông tin quản lý về TMĐT (online.gov.vn), tại đó có dữ liệu khá đầy đủ về những doanh nghiệp sở hữu các website TMĐT bán hàng và các sàn giao dịch TMĐT đã thực hiện thủ tục thông báo và đăng ký với Bộ Công Thương.

Bộ Công Thương là cơ quan quản lý đối với chủ thể sở hữu các website và nền tảng TMĐT. Và chúng tôi đã tiến hành chia sẻ dữ liệu đó với cơ quan quản lý nhà nước về Công Thương ở tất cả các địa phương và hiện nay đang thực hiện việc kết nối, chia sẻ với Tổng cục Thuế.

Bà Lại Việt Anh: Chúng tôi đã chia sẻ dữ liệu về hơn 1.000 chủ thể sở hữu nền tảng TMĐT ở dạng website hay dạng ứng dụng - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bà Lại Việt Anh: Chúng tôi đã chia sẻ dữ liệu về hơn 1.000 chủ thể sở hữu nền tảng TMĐT ở dạng website hay dạng ứng dụng - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Chúng tôi đã chia sẻ dữ liệu về hơn 1.000 chủ thể sở hữu nền tảng TMĐT ở dạng website hay dạng ứng dụng; tiến tới chia sẻ dữ liệu của khoảng 50.000 những chủ thể sở hữu website TMĐT bán hàng. Chúng tôi hy vọng rằng thông tin chia sẻ, kết nối, tiến tới đồng bộ hóa dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thể tăng hiệu quả công tác quản lý, giúp giảm thời gian cho doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục với nhiều cơ quan khác nhau.

Yếu tố thứ hai chúng tôi làm trong giai đoạn qua là ứng dụng công nghệ thông tin, những công nghệ mới phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để giúp sàng lọc thông tin, giám sát hoạt động TMĐT trên môi trường trường trực tuyến và phát hiện hành vi sai phạm. Đây cũng là một công tác để có thể giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với các chủ thể kinh doanh cũng là một lĩnh vực rất quan trọng. Cùng đồng hành với Tổng cục Thuế, chúng tôi tổ chức rất nhiều chương trình nhằm phổ biến cho doanh nghiệp nắm rõ quy định pháp luật, những nghĩa vụ liên quan và hướng dẫn doanh nghiệp tuân thủ nghĩa vụ về thuế trong quá trình thực hiện kinh doanh trên môi trường trực tuyến.

Dữ liệu phải được bảo đảm đúng, đủ, sạch, sống

MC: Thưa ông, các phương pháp và công nghệ nào đã được triển khai cụ thể để nâng cao hiệu quả của việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan chức năng trong lĩnh vực thương mại điện tử, và chúng đã đóng góp như thế nào vào việc giảm thiểu tình trạng thất thu thuế sau 1 năm thực hiện Chỉ thị số 18? Vai trò của Công nghệ thông tin và các cơ sở dữ liệu để đạt được kết quả trong thời gian qua?

Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông:

Ông Trần Minh Tuấn: Bộ Thông tin và Truyền thông đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong bộ để triển khai, hỗ trợ Tổng cục Thuế trong quá trình triển khai công tác thu thuế trên hoạt động thương mại điện tử - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Ông Trần Minh Tuấn: Bộ Thông tin và Truyền thông đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong bộ để triển khai, hỗ trợ Tổng cục Thuế trong quá trình triển khai công tác thu thuế trên hoạt động thương mại điện tử - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bản thân chữ Thương mại điện tử có 2 vế. Vế thứ nhất là thương mại: bao gồm các hoạt động thương mại. Vế thứ hai là điện tử: được thực hiện hoàn toàn trên môi trường số. Do vậy, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhanh chóng triển khai xây dựng kế hoạch với 7 nhóm và 25 nhiệm vụ cụ thể. Giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong bộ để triển khai, hỗ trợ Tổng cục Thuế trong quá trình triển khai công tác thu thuế trên hoạt động thương mại Điện tử.

Đặc biệt, TMĐT của chúng ta có những môi trường đặc biệt vì môi trường số cũng có biên giới. Hầu như chúng ta mua hàng chúng ta cũng không biết rằng là hàng đó chúng ta đang mua của nhà cung cấp nước ngoài. Người tiêu dùng hoàn toàn không hề hay biết được điều đó, chỉ biết là sau khi mua hàng trả tiền xong có hàng hóa đến nhà. Nhưng thực ra, người tiêu dùng hiểu ra khi mua hàng nước ngoài có thể sàn TMĐT nước ngoài có thể trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với Chính phủ Việt Nam. Trong khi đó tiêu dùng, toàn bộ mọi thứ trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó đặt ra cho Bộ Thông tin và Truyền thông những thách thức rất lớn.

Thứ nhất, chúng tôi đã ban hành những văn bản vi phạm pháp luật: Tháng 12/2023 đã ban hành khung Kiến trúc Chính phủ điện tử 3.0, Chính phủ số. Khung này đã thay cho khung Kiến trúc Chính phủ 2.0 năm 2019. Theo đó quy định toàn bộ những cấu trúc, mô hình nghiệp vụ, nghiệp vụ về dữ liệu, về an toàn thông tin, về tất cả các cấu trúc, để toàn bộ các bộ, ngành, địa phương có thể dựa trên khung Kiến trúc Chính phủ điện tử, xây dựng toàn bộ cấu trúc của các nghiệp vụ, của các dữ liệu và để trao đổi thông tin một cách thông suốt giữa các bộ, ngành, địa phương trên nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu Quốc gia, nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương.

Thứ hai, Nghị định 47 năm 2020 về kết nối các cơ sở dữ liệu và trao đổi dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, cũng như Nghị định 47 năm 2024 về cơ sở dữ liệu Quốc gia cũng đã quy định rất rõ về hoạt động của các cơ sở dữ liệu, về cách thức trao đổi dữ liệu trên toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước, bảo đảm cho dữ liệu được thông suốt, để đối soát dữ liệu phục vụ cho hoạt động giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng.

Thứ ba, về kết nối các cơ sở dữ liệu, đối với TMĐT có một số kết nối cơ sở dữ liệu như chị Lan Anh đã nói. Đặc biệt, quan trọng nhất là cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế liên quan đến cơ sở dữ liệu về hóa đơn, cơ sở dữ liệu về thuế.

Ông Trần Minh Tuấn: Cơ sở dữ liệu rất quan trọng là cơ sở dữ liệu các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động TMĐT - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Ông Trần Minh Tuấn: Cơ sở dữ liệu rất quan trọng là cơ sở dữ liệu các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động TMĐT - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Cơ sở dữ liệu thứ hai rất quan trọng là cơ sở dữ liệu các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động TMĐT.

Cơ sở dữ liệu thứ ba cũng rất quan trọng là cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước, kết nối toàn bộ hệ thống tài khoản của tổ chức, cá nhân để bảo đảm dòng tiền thông suốt.

Ngoài ra, cơ sở dữ liệu của Bộ thông tin và Truyền thông gồm: cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh - truyền hình; truyền hình trả tiền trong nước và xuyên biên giới; các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo; cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát, đó là một khâu trong TMĐT; cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp công nghệ số, sản xuất các thiết bị; đặc biệt các cơ sở dữ liệu liên quan đến các website có tên miền vn, có liên quan đến điện tử,..

Cuối cùng là cơ sở dữ liệu của Bộ Công an với hệ thống VNID rất hoàn thiện, có thể gắn kết được các chủ doanh nghiệp với VNID, giúp dữ liệu được xác thực một cách thông suốt, đấy là việc kết nối các cơ sở dữ liệu. Toàn bộ được thực hiện trên các nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu quốc gia, Bộ, ngành, địa phương.

Thứ tư, về dữ liệu, Bộ Thông tin và Truyền thông có hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương trong việc bảo đảm dữ liệu theo đúng quy định tại Nghị định 47 của Chính phủ quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia. Thứ hai dữ liệu phải được làm sạch, phải được phân loại, dán nhãn, bảo đảm đúng, đủ, sạch, sống. Đặc biệt là loại bỏ những dữ liệu trùng lặp có liên quan, bảo đảm khi kết nối các cơ sở dữ liệu hoạt động hiệu quả.

Đối với những cơ sở dữ liệu đó, chúng ta áp dụng những công nghệ như chị Việt Anh nói, như Al, Blockchain,.. để chúng ta có thể phát hiện ra những hoạt động bất thường, phục vụ cho công tác thương mại điện tử thay đổi rất nhanh trên môi trường mạng.

Cuối cùng là công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm dữ liệu luôn luôn đúng, đủ, sạch, sống, đó là trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc xây dựng tiêu chuẩn như: bảo đảm kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử.

Thanh toán điện tử song hành với phát triển TMĐT

Xin cho biết quy mô của VNPAY bây giờ là thế nào trên thị trường. Thanh toán điện tử là một trong những khâu quan trọng của thương mại điện tử. Là một trung gian thanh toán, ông có đánh giá như thế nào tại thị trường VN.

TS. Trần Mạnh Nam, Giám đốc Khối Doanh nghiệp VNPAY :

TS. Trần Mạnh Nam: Chúng tôi cũng thường xuyên thuê các đơn vị có thể tư vấn điện tử, đánh giá hệ thống thông tin của VNPAY - Ảnh VGP/Nhật Bắc

TS. Trần Mạnh Nam: Chúng tôi cũng thường xuyên thuê các đơn vị có thể tư vấn điện tử, đánh giá hệ thống thông tin của VNPAY - Ảnh VGP/Nhật Bắc

VNPAY là đơn vị trung gian thanh toán và cung cấp các nền tảng thanh toán số khá đa dạng cho người dùng, đáp ứng hầu hết các nhu cầu của người dùng bao gồm: thanh toán trực tuyến trên các website điện tử, thanh toán qua thiết bị POS, thanh toán QR.

Với thiết bị POS, có các hình thức tiếp xúc và không tiếp xúc, thì bây giờ phần lớn là không tiếp xúc để đảm bảo an ninh thông tin cũng như các vấn đề an toàn dịch bệnh sau đại dịch COVID-19.

Trong thanh toán nói chung và TMĐT nói riêng, tôi thấy rằng việc đưa ra các giải pháp thanh toán đảm bảo an toàn về an ninh thông tin của người sử dụng là yếu tố quan trọng, vì thế ngoài việc chúng tôi thường xuyên cập nhật tất cả các chứng chỉ liên quan đến thanh toán điện tử.

Chúng tôi cũng thường xuyên thuê các đơn vị có thể tư vấn điện tử, đánh giá hệ thống thông tin của VNPAY.

TMĐT bao gồm vấn đề về Logistics và thanh toán. Việc phát triển của thanh toán điện tử cũng đi song hành với phát triển TMĐT. Trong 5 năm gần đây, thanh toán điện tử phát triển vượt bậc với rất nhiều các phương thức thanh toán. Người dân bây giờ có thể sử dụng thanh toán điện tử trong hầu hết các nhu cầu thanh toán của họ. Đơn vị thụ hưởng quá trình thanh toán điện tử là ai? Trong thương mại điện tử thì đó chính là những người bán hàng, từ đó mình có thể xác minh được doanh thu của người bán hàng, cơ quan thuế có thể từ doanh thu đó hình thành nên nghĩa vụ thuế của người bán hàng.

Chúng ta nên bóc tách đâu là dòng tiền thương mại và dòng tiền phi thương mại của các chủ sở hữu để từ đó cơ quan thuế có thể xác định được đâu là trách nhiệm thuế, đâu là nghĩa vụ thuế của các đơn vị tham gia bán hàng.

Tôi cũng vừa tham gia một hội nghị tại Australia vào đầu tháng 9 vừa qua về thanh toán điện tử. Chúng tôi thấy rằng, với các nước phát triển, việc xác minh, bóc tách các dòng tiền thương mại đối với các tài khoản tham gia thương mại, họ đã triển khai từ lâu, từ đó các cơ quan đơn vị rất dễ dàng quản lý thu đúng thu đủ.

Thu thuế từ thương mại điện tử gia tăng nhờ đâu?

MC: Ở góc độ chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh có nhận định và đánh giá như thế nào về nỗ lực của ngành thuế và các cơ quan liên quan trong thời gian qua? Theo ông thì sự thay đổi không ngừng của các hình thức kinh doanh trên môi trường điện tử đang đặt ra những khó khăn, thách thức mới nào cho công tác quản lý thuế?

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh:

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh: Việc làm sao thu đúng thu đủ, thu chính xác đối với hoạt động TMĐT trở thành khó khăn chung với hầu hết cơ quan thuế trên thế giới - Ảnh VGP/Nhật Bắc

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh: Việc làm sao thu đúng thu đủ, thu chính xác đối với hoạt động TMĐT trở thành khó khăn chung với hầu hết cơ quan thuế trên thế giới - Ảnh VGP/Nhật Bắc

TMĐT là hình thức kinh doanh mới trên thế giới, là hình thức thay đổi rất nhanh chóng, trong khoảng thời gian rất ngắn đã có những hình thức kinh doanh mới ra đời. Chính vì lẽ đó, việc quản lý TMĐT cũng gặp rất nhiều khó khăn. Việc làm sao thu đúng thu đủ, thu chính xác đối với hoạt động TMĐT trở thành khó khăn chung với hầu hết cơ quan thuế trên thế giới, kể cả những cơ quan thuế rất phát triển như Mỹ hay Liên minh châu Âu …ở Việt Nam, việc chúng ta nghiên cứu, đề ra các biện pháp thu đối với lĩnh vực này cũng chưa có gì mới.

Ngay từ những năm mới gần đây (năm 2021), chúng ta cũng chỉ thu một vài nghìn tỷ đồng từ thương mại điện tử này. Chỉ từ năm 2022 trở lại đây khi chúng ta có eTax Mobile, lúc đó chúng ta mới có được lượng thu tương đối lớn lên 90.000 tỷ đồng trong năm 2023. Đến năm 2024, mới có khả năng thu được trên 100.000 tỷ đồng.

Rõ ràng ở đây là sự cố gắng, nỗ lực của Tổng Cục thuế, cũng như các cơ quan ban ngành có liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương hay Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, chính quyền các địa phương trong việc kết hợp để quản lý các đối tượng khác nhau trên địa bàn.

Đặc biệt trong thời gian gần đây, khi chúng ta có VneID của Bộ Công an thì việc tích hợp các dữ liệu của rất nhiều cơ quan đang tạo điều kiện thuận lợi cho không chỉ Tổng Cục thuế quản lý TMĐT này mà nó còn là điều kiện để chúng ta quản lý tốt hơn các lĩnh vực khác liên quan đến cả kinh tế và xã hội.

Đây là những nỗ lực chung của các cơ quan, ban ngành trong hoạt động kinh tế số, để chúng ta sớm quản lý được một lĩnh vực rất đa dạng và phong phú, khi chúng ta có quyết tâm xây dựng nền kinh tế số sớm hơn và tốt hơn.

Chúng ta có quyết tâm xây dựng nền kinh tế số sớm hơn và tốt hơn - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Chúng ta có quyết tâm xây dựng nền kinh tế số sớm hơn và tốt hơn - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Kinh nghiệm khai thuế, nộp thuế của các sàn TMĐT trên thế giới

MC: Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT cần áp dụng cơ chế yêu cầu sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế thay, nộp thuế thay cho người bán và cơ chế thu thập dữ liệu từ các nền tảng số, các sàn TMĐT và các đơn vị trong hệ sinh thái TMĐT. Những kinh nghiệm của quốc tế đã được ngành thuế áp dụng thế nào với thực tế của Việt Nam ?

Bà Nguyễn Thị Lan Anh:

Chúng tôi qua tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế do World Bank và OECD chia sẻ, nhằm quản lý thuế hiệu quả đối với hoạt động TMĐT. Một số quốc gia đã áp dụng cơ chế yêu cầu Sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế và nộp thuế thay các nhà cung cấp và cơ chế thu thập dữ liệu từ các nền tảng số, sàn TMĐT và các đơn vị trong hệ sinh thái TMĐT đối với người nộp thuế trong nước.

Theo kinh nghiệm quốc tế, việc quy định Sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế thay, nộp thuế thay được áp dụng phổ biến trong việc quản lý thuế GTGT đối với các nhà cung cấp nước ngoài có giao dịch trên các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số. Theo đó, nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối với các giao dịch qua sàn TMĐT hoặc nền tảng số thuộc về các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số. Việc quy định như vậy sẽ giúp giảm rất nhiều gánh nặng tuân thủ đối với các nhà cung cấp, cũng như nâng cao hiệu suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thuế.

Một số quốc gia áp dụng cơ chế này đối với người nộp thuế trong nước. Chẳng hạn, Bỉ và Uruguay cũng áp dụng cơ chế thuế khấu trừ tại nguồn đối với nền kinh tế chia sẻ. Ngoài ra, tại một số bang của Mỹ đã yêu cầu một số sàn TMĐT lớn trên thế giới có trách nhiệm thu hộ và nộp thuế thay cho người bán (bao gồm cả người bán trong nước và nước ngoài).

Thực tiễn thế giới cũng cho thấy một số quốc gia áp dụng cơ chế thu thập dữ liệu từ các sàn TMĐT, nền tảng số nước ngoài. Quy định này được các quốc gia quy định khá phá biến.

Vào tháng 7/2020, OECD đã công bố các quy tắc mẫu được thiết kế để trở thành một phần của quy trình quốc tế nhằm thu thập và chia sẻ thông tin về các nhà cung cấp sử dụng nền tảng kỹ thuật số để bán dịch vụ.

Vào tháng 3/2021, Liên minh Châu Âu đã áp đặt một nghĩa vụ mới đối với các nhà vận hành nền tảng số phải báo cáo thông tin thu nhập của người bán hàng trên các nền tảng của họ và để các quốc gia thành viên tự động trao đổi thông tin này.

Một số quốc gia đã yêu cầu trực tiếp các nhà vận hành nền tảng ở nước ngoài cung cấp dữ liệu về các doanh nghiệp trong nước sử dụng các nền tảng đó. Tại Trung Quốc, cũng áp dụng quy định yêu cầu các sàn TMĐT khai báo thông tin về hoạt động mua bán, các thông tin về thuế có liên quan của các giao dịch cho cơ quan thuế và lưu trữ các thông tin này trong tối thiểu 3 năm.

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đánh giá tính khả thi, sự phù hợp khi triển khai tại Việt Nam, Tổng cục Thuế đã đề xuất một số nội dung trong quá trình sửa đổi Luật Quản lý thuế, Luật Thuế và các văn bản hướng dẫn theo hướng tăng cường trách nhiệm khai thuế thay, nộp thuế thay cho người bán tại nguồn của các sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến, đồng thời tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin của các sàn TMĐT và các đơn vị cung cấp dịch vụ logistic.

Tiếp tục cập nhật...

Cổng TTĐT Chính phủ

Nguồn Chính Phủ: https://baochinhphu.vn/toa-dam-ve-tang-cuong-hieu-qua-quan-ly-thue-doi-voi-thuong-mai-dien-tu-102240923090642361.htm