Tổng cục Thuế thông tin về những điểm mới tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP
Ngày 01/12/2020, Tổng cục Thuế đã tổ chức buổi họp báo giới thiệu các nghị định hướng dẫn Luật Quản lý Thuế; giải đáp những vướng mắc mà dư luận quan tâm về Nghị định số 126/2020/NĐ-CP Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14.
Ngày 19/10/2020, Chính phủ ban hành một số các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế, trong đó Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5/12/2020 và được áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2021.
Trong thời gian qua, một số quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP đã được dư luận rất quan tâm, như quy định về khai thuế GTGT đối với doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh giữa tổ chức và cá nhân;
Về việc khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh giữa tổ chức và cá nhân; khai thuế, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 3 quý...
Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Bộ Tài chính, giải đáp những băn khoăn của cộng đồng doanh nghiệp, và các tổ chức cá nhân, Tổng cục Thuế đã thông tin về những vấn đề đang được dư luận quan tâm về một số nội dung mới được quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP cũng như một số các Nghị định liên quan hướng dẫn thi hành Luật Quản lý Thuế.
Giải đáp về việc khai thuế GTGT đối với doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh giữa tổ chức và cá nhân, Tổng cục Thuế cho biết, tại điểm c khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định rõ các Tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân thì cá nhân không trực tiếp khai thuế.
Việc khai thuế GTGT sẽ được tổ chức có trách nhiệm thực hiện đối với toàn bộ doanh thu của hoạt động hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế và quản lý thuế của tổ chức mà không phân biệt hình thức phân chia kết quả hợp tác kinh doanh, đồng thời khai thay và nộp thay thuế TNCN cho cá nhân hợp tác kinh doanh.
Đối với trường hợp tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo quy định tại khoản 5 Điều 51 Luật Quản lý thuế, mà cá nhân có ngành nghề đang hoạt động cùng với ngành nghề hợp tác kinh doanh với tổ chức thì tổ chức và cá nhân tự thực hiện khai thuế tương ứng với kết quả thực tế hợp tác kinh doanh theo quy định.
Về khai thuế, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán, theo Tổng cục Thuế, tại điểm d khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định, đối với cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán thì tổ chức có trách nhiệm khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi cá nhân chuyển nhượng chứng khoán cùng loại…
Cụ thể, thay vì cá nhân tự khai thì quy định tổ chức có trách nhiệm khai thay, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán, cá nhân được ghi nhận phần vốn tăng thêm do lợi tức ghi tăng vốn.
Như vậy, Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định chỉ thay đổi chủ thể khai, và nộp thuế TNCN (từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn).
Về tạm nộp thuế TNDN 3 quý, Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 có quy định đối với thuế TNDN, doanh nghiệp thực hiện tạm nộp theo quý và quyết toán thuế theo năm. Nghị định số 126/2020/NĐ-CP đã sửa đổi quy định về nghĩa vụ tạm nộp thuế TNDN theo quý.
Theo đó, tại điểm b khoản 6 Điều 8 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định, tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp đã tạm nộp của 03 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế TNDN phải nộp theo quyết toán năm.
Trong trường hợp người nộp thuế nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 03 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế TNDN quý 03 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
Đối với việc phân bổ nghĩa vụ thuế đối với trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính nhưng có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính, Tổng cục Thuế cho biết, tại Khoản 3 Điều 42 Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 quy định, người nộp thuế thực hiện khai thuế, tính thuế tại cơ quan thuế địa phương có thẩm quyền nơi có trụ sở.
Trường hợp người nộp thuế hạch toán tập trung tại trụ sở chính, có đơn vị phụ thuộc tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì người nộp thuế khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết khoản này.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cơ sở cho việc thực hiện phân bổ nghĩa vụ thuế theo quy định tại khoản 3 Điêu 42 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14, Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định về khai thuế trong trường hợp này như sau: Người nộp thuế khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu ngân sách.
Tuy nhiên, Nghị định số 126/2020/NĐ-CP có quy định nội dung khai thuế này sẽ được thực hiện cho năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách tiếp theo kể từ khi Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực thi hành.
Về trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng của người nộp thuế và khấu trừ nộp thay nghĩa vụ thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử tại Việt Nam, Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14 quy định, trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi mở tài khoản và khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.
Căn cứ theo quy định tại Luật Quản lý Thuế số 38/2019/QH14, Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định rõ, ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế…
Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam…