TỔNG THUẬT: Hội nghị toàn quốc tổng kết 02 chương trình mục tiêu quốc gia và 02 phong trào thi đua về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững
Chiều 22/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Phong trào 'Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới', Phong trào 'Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau' giai đoạn 2021-2025.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc giá xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Phong trào "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới", Phong trào "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" giai đoạn 2021-2025 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Hội nghị diễn ra tại điểm cầu chính Trụ sở Chính phủ, kết nối đến trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cùng dự và đồng chủ trì Hội nghị tại điểm cầu Hà Nội có Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến, các Phó Thủ tướng: Trần Hồng Hà, Mai Văn Chính; Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan.
Đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành ở Trung ương, thành viên các ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia, ban chỉ đạo các phong trào thi đua, đại diện một số tổ chức quốc tế dự Hội nghị.
Trước Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu đã tham quan các gian trưng bày các sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu khai mạc, nhấn mạnh vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, chúng ta lấy nông dân làm trung tâm, nông nghiệp làm động lực, nông thôn là nền tảng. Đa số người dân Việt Nam ở nông thôn, số lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn.
Thủ tướng khẳng định, trong đại dịch COVID-19 và sau đại dịch với hậu quả kéo dài, nếu không có nông nghiệp thì sẽ khó có thể giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là bảo đảm lương thực – thực phẩm trong lúc khó khăn.
Cùng với đó, Thủ tướng nhấn mạnh vai trò của nền văn minh lúa nước, đóng góp, dấu ấn của khu vực nông nghiệp, nông thôn với nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Do đó, đây là Hội nghị quan trọng, trong bối cảnh cả nước đang tích cực thi đua chào mừng, kỷ niệm các ngày lễ lớn; khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ theo các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội, nhất là cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, bỏ cấp huyện từ ngày 1/7/2025 (cả nước còn 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh và 3.321 đơn vị hành chính cấp xã).
Thời gian qua, chương trình xây dựng nông thôn mới có 79% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 51% số đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn hoặc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; đã có 12 tỉnh, thành phố được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu đã tham quan các gian trưng bày các sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều vùng có tỉ lệ nghèo trên 50%. Bên cạnh sự tích cực của các phong trào thi đua, công tác thi đua khen thưởng cũng còn những bất cập như chưa phát hiện, khen thưởng kịp thời các điển hình, nhiều cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp mà chưa được khen thưởng, biểu dương...
Thủ tướng đề nghị các đại biểu đánh giá về kết quả thực hiện, chia sẻ những cách làm, mô hình hay, sáng tạo, điển hình; tôn vinh, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích nổi bật; thảo luận định hướng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-203 (về sự cần thiết đầu tư Chương trình trong bối cảnh hiện nay; các quan điểm, mục tiêu; phạm vi và quy mô; nội dung thực hiện; giải pháp tổ chức thực hiện trong bối cảnh, yêu cầu mới; việc lồng ghép các chương trình; triển khai hiệu quả các chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP)…)
Thủ tướng cũng cho rằng, bảo đảm môi trường nông thôn, gắn với xóa bỏ các tập tục lạc hậu, như bảo đảm nước sạch, nhà vệ sinh hợp vệ sinh… là những vấn đề rất quan trọng cần bàn thêm để làm tốt hơn.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy trình bày Báo cáo tóm tắt tổng kết 02 Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2021-2025; định hướng Chương trình MTQG Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2026-2035 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo tóm tắt tổng kết 02 Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2021-2025; định hướng Chương trình MTQG Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2026-2035
Trình bày Báo cáo tóm tắt tổng kết 02 Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2021-2025; định hướng Chương trình MTQG Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2026-2035, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đánh giá:
- Kết quả thực hiện hai Chương trình MTQG tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, nhà nước, được người dân đồng thuận cao, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
- Điều kiện sống người dân cải thiện rõ nét, nhất là các địa bàn khó khăn. Hạ tầng nông thôn phát triển đồng bộ, dịch vụ thiết yếu được mở rộng; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, góp phần thu hẹp khảng cách phát triển và chênh lệch vùng miền.
- Công tác chỉ đạo, điều hành linh hoạt, tăng cường phân cấp cho địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu - nguồn lực - tổ chức thực hiện. Công tác truyền thông, giám sát, phản biện được chú trọng.
- Đã tiếp cận các xu thế phát triển mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, du lịch nông thôn, dinh dưỡng, đào tạo nghề, tạo việc làm, bình đẳng giới, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030.
- Các phong trào "Cả nước chung sức xây dựng NTM", "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau", cuộc vận động "Toàn dân xây dựng NTM, đô thị văn minh"…, có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp Nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM và GNBV. Trong đó, đã có hàng triệu hộ dân tự nguyện hiến hơn 98,2 triệu m² đất, đóng góp hàng chục nghìn tỷ đồng và ngày công xây dựng NTM.
Về định hướng chương trình giai đoạn 2026-2035, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nêu mục tiêu: Xây dựng nông thôn mới hiện đại, toàn diện, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nâng cao thu nhập, chất lượng sống và khả năng tiếp cận dịch vụ thiết yếu của người dân nông thôn, từng bước tiệm cận mức sống đô thị. Xây dựng nông thôn xanh, sạch, đẹp, an toàn, đậm bản sắc văn hóa; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững; giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; hình thành cộng đồng nông thôn văn minh, nhân văn, gắn kết và hạnh phúc.
- Phấn đấu đến năm 2030: Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 2,5 lần so với năm 2020; không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025; duy trì giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân từ 1 đến 1,5%/năm, xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm. Đến năm 2030, cả nước có ít nhất 80% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó, có ít nhất 35% số xã NTM nâng cao; có ít nhất 10% số xã NTM hiện đại. Cả nước không còn xã dưới 15 tiêu chí NTM. Có khoảng 6-8/34 đơn vị cấp tỉnh được công nhận hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM, trong đó, có 2-3 đơn vị cấp tỉnh được công nhận hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM hiện đại.
- Phấn đấu đến năm 2035: Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 1,6 lần so với năm 2030; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều toàn quốc giảm còn dưới 1%. Cả nước có ít nhất 90% số xã đạt chuẩn NTM; 50% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 25% số xã đạt chuẩn NTM hiện đại. Có khoảng 12-14 đơn vị cấp tỉnh được công nhận hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM, trong đó có 50% đơn vị cấp tỉnh được công nhận hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM hiện đại.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà trình bày Báo cáo tóm tắt tổng kết Phong trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới" và "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo tóm tắt tổng kết Phong trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới" và "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau"
Một là, các kết quả đạt được thời gian qua là kết quả của sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ. Phong trào phải thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với làm tốt công tác chăm lo an sinh xã hội, tăng cường niềm tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước, Chính phủ.
Hai là, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò quyết định trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Phong trào thi đua; sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong tổ chức, triển khai Phong trào thi đua với tinh thần huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc. Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy, chính quyền vào cuộc quyết liệt thì nơi đó Phong trào thi đua thực sự hiệu quả, thiết thực và đạt nhiều kết quả quan trọng.
Ba là, cần làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành và nhân dân, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn dân về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Bốn là, tổ chức Phong trào thi đua cần có tiêu chí thiết thực, cụ thể, nội dung trọng tâm, trọng điểm, lấy người dân làm trung tâm, là động lực của phong trào thi đua, phù hợp với tình hình thực tiễn của bộ, ban, ngành, địa phương; thường xuyên đối mới nội dung, phương thức tổ chức phong trào, linh hoạt, sáng tạo trong quá trình tố chức triển khai thực hiện nhằm huy động đông đảo các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng.
Nằm là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Phong trào thi đua, kịp thời nắm bắt những kiến nghị, đề xuất, phát hiện và tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn; định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân tiêu biểu, lập được thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua nhằm cổ vũ, động viên phong trào, tạo hiệu quả lan tỏả sâu rộng trong cộng đồng và xã hội.

Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Hầu A Lềnh báo cáo tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Hầu A Lềnh: Tỉnh Hà Giang nhận thức rằng hai chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững rất quan trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo nói chung trên địa bàn cả nước, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với hai Chương trình mục tiêu quốc gia này, cùng với các địa phương khác trong vùng, tỉnh Hà Giang thời gian vừa qua đã quyết liệt chỉ đạo, phân công nhiệm vụ, thành lập các ban chỉ đạo, xây dựng kế hoạch phân bổ vốn, huy động các nguồn lực tại địa phương, tổ chức triển khai trên địa bàn toàn tỉnh.
Tuy nhiên, tỉnh Hà Giang còn rất nhiều khó khăn, địa hình chia cắt, người dân sinh sống ở những vùng rất xa xôi, nền kinh tế xuất phát thấp và nguồn lực của địa phương rất hạn chế. Chính vì vậy, tổng kết 5 năm vừa qua, tính đến hết thời điểm tháng 6 năm 2025, tỉnh Hà Giang có tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới còn rất khiêm tốn và cần phải nỗ lực, cố gắng nhiều hơn để đạt được mục tiêu đề ra.
Chúng tôi rất đồng tình với quan điểm chỉ đạo của Trung ương, đặc biệt là của Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan chủ trì ở Trung ương, về việc tổng kết giai đoạn này cần phải đánh giá rất kỹ càng, tích hợp các Chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình mục tiêu chung nằm trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, gắn với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp ở địa phương. Chúng tôi đang chỉ đạo tích hợp các nội dung này vào phần an sinh xã hội ở địa phương. Chúng tôi rất đồng tình với quan điểm này và cũng rất mong muốn Ban Chỉ đạo Trung ương, các cơ quan Trung ương sớm chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổng kết, đánh giá thật kỹ để xác định các mục tiêu như dự thảo mà Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đưa ra.
Điểm thứ hai là về phân bổ nguồn lực. Trong giai đoạn mới, chắc chắn sẽ có cơ chế phân bổ nguồn lực theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, chúng tôi rất đồng tình với quan điểm đó. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mong muốn là đối với các địa phương khó khăn, ví dụ như địa phương chưa thể tự cân đối nguồn lực, thì trong quá trình thiết kế chương trình cho giai đoạn sau, rất mong Trung ương tiếp tục có kinh phí hỗ trợ trong một giai đoạn nhất định để thực hiện các mục tiêu của chương trình ở những địa phương này, đặc biệt là đối với hạ tầng chiến lược, những vấn đề người dân rất cần. Vừa qua chúng ta đã hoàn thành việc xây dựng nhà ở cho người dân. Tới đây, cần tiếp tục đầu tư vào một số hạ tầng chiến lược khác như hạ tầng giao thông, điện, hệ thống mạng… thì mới đạt được các mục tiêu phát triển.
Thứ ba, về thời điểm thiết kế chương trình cho giai đoạn tới. Chúng tôi mong muốn là khi thiết kế chương trình mới thì có chủ trương sớm, vì ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, các địa phương sẽ xây dựng các nghị quyết đại hội và xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai nhiệm vụ của mình trong nhiệm kỳ mới. Nếu Quốc hội thông qua chương trình mục tiêu quốc gia cho giai đoạn tới sớm hơn, sẽ phù hợp hơn với các mục tiêu phát triển trong 5 năm tới, để các địa phương chủ động , vừa tích hợp ngay vào nghị quyết đại hội đảng bộ cấp tỉnh và kế hoạch triển khai trong giai đoạn đầu nhiệm kỳ. Việc ban hành sớm sẽ giúp các địa phương chủ động tích hợp ngay vào nghị quyết và triển khai từ đầu nhiệm kỳ, đảm bảo hiệu quả.
Thứ tư, về cơ cấu Ban chỉ đạo: Để đảm bảo sự thống nhất, chúng tôi đề xuất thành lập một Ban chỉ đạo chung duy nhất cho chương trình mục tiêu quốc gia ở cả cấp Trung ương và cấp tỉnh.

Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Đặng Xuân Phong kiến nghị sớm ban hành văn bản về cơ chế đầu tư hệ thống nước sạch khu vực nông thôn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Đặng Xuân Phong: Về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tính đến thời điểm hiện tại, chúng tôi đều đạt và vượt mức của Trung ương và tỉnh đã đưa ra.
Thôn đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao đều đạt trên 150%.
Về xã nông thôn mới, Vĩnh Phúc là 1 trong 12 tỉnh đã được Trung ương công nhận hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới.
Khó khăn, vướng mắc duy nhất trong chương trình nông thôn mới ở tỉnh Vĩnh Phúc là về vệ sinh môi trường nông thôn và cấp nước sạch khu vực nông thôn.
Về chương trình giảm nghèo bền vững, hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ còn 0,4% hộ nghèo; hơn 1% hộ cận nghèo.
Về xóa nhà cho hộ nghèo, chúng tôi đã thực hiện xong, chỉ còn hơn 300 hộ chưa cứng hóa nhà. Đến 30/6 này, tỉnh Vĩnh Phúc sẽ hoàn thành tất cả cho hộ nghèo và cho hộ người có công. Chỉ còn một số hộ nghèo và cận nghèo thuộc diện không thể thoát nghèo thì chúng tôi đưa vào diện bảo trợ xã hội. Dự kiến cũng đến 30/6 sẽ hoàn thành việc này.
Về đề xuất kiến nghị với Trung ương, chúng tôi đề nghị Bộ Tài chính sớm trình Thủ tướng ban hành văn bản thay thế Nghị định số 57 về cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để có cơ chế đầu tư hệ thống nước sạch khu vực nông thôn. Đồng thời cũng đề nghị Chính phủ xem xét mở rộng đối tượng được vay vốn ưu đãi từ nguồn vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, để triển khai chương trình mục tiêu quốc gia cho các hộ nghèo vay với mức lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ.

Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Nguyễn Doãn Anh nêu 5 bài học trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Nguyễn Doãn Anh: Thanh Hóa có diện tích trên 11.000 km2, dân số khoảng 4,3 triệu người, trong đó dân số khu vực nông thôn chiếm 82%. Toàn tỉnh có 26 huyện, thị, thành; 547 xã, phường, thị trấn và 3.326 thôn, bản, tổ dân phố hoạt động; đặc biệt có 11 huyện miền núi với 166 xã và khoảng 75% số hộ nghèo, cận nghèo của tỉnh đang sinh sống trên 11 huyện miền núi.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, tỉnh Thanh Hóa đã quán triệt triển khai nghiêm túc các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận của Trung ương, trong đó tập trung cụ thể hóa bằng các chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; ban hành đầy đủ các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và Ban Chỉ đạo tỉnh để tổ chức triển khai thực hiện một cách hết sức hiệu quả.
Tại thời điểm xây dựng nông thôn mới năm 2010, đời sống người nông dân, nông thôn của Thanh Hóa còn rất nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn mới đạt được 8-9 triệu đồng/đầu người/năm, tỉ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn chiếm 26,96%.
Đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 42,11 triệu đồng/đầu người/năm, tăng 4,7 lần so với năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 8,86%, bình quân hằng năm giảm khoảng 1,81%.
Đến năm 2024, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn là 60,86 triệu đồng, tăng 1,44 lần so với năm 2020, tỉ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn 4,76%, bình quân hằng năm giảm 1,02%. Hiện nay hộ nghèo, cận nghèo của tỉnh còn 2,02%, tương ứng 20.660 hộ. Tỉnh đạt được 15/26 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, bằng 58% so với mục tiêu; 374/547 xã, đạt 69%, trong đó có 831 thôn bản miền núi đạt chuẩn nông thôn mới, xóa trắng xã nông thôn mới trên địa bàn huyện Mường Lát, 4 huyện và 125 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 33 xã, 629 thôn bản đạt nông thôn mới kiểu mẫu. Đến thời điểm hiện nay toàn tỉnh có 645 sản phẩm OCOP, trong đó có 2 sản phẩm 5 sao.
Để có những kết quả trên, Thanh Hóa luôn bám sát chỉ đạo, định hướng của trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự hướng dẫn, giúp đỡ của các cơ quan, ban bộ ngành trung ương, các tỉnh bạn.
Thứ hai, Thanh Hóa đã ban hành đầy đủ, cụ thể hóa hệ thống văn bản một cách đồng bộ, đặc biệt là hằng năm xây dựng và bổ sung các kế hoạch, chỉ tiêu cụ thể cho từng địa phương.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới và phong trào vì người nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.
Thứ tư, tập trung xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bộ, phù hợp, đặc biệt là phát huy nội lực, huy động nguồn lực trong nhân dân, tiêu biểu như việc hiến đất của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, đường làng, ngõ xóm, các công trình thủy lợi với tổng diện tích người dân đã hiến 198 ha, trong đó nổi bật huyện Triệu Sơn, 21.674 hộ đã hiến 87 ha, tính ra số nguồn kinh phí khoảng trên 4.000 tỷ đồng. Nguồn lực huy động từ cộng đồng dân cư, các thành phần kinh tế chiếm khoảng 70% tổng nguồn lực đầu tư và hỗ trợ chương trình xây dựng nông thôn mới.
Thứ năm, chúng tôi đã làm tốt công tác tổng kết, sơ kết hằng năm, khen thưởng kịp thời cho tổ chức, cá nhân đã có thành tích nổi bật trong xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Đến nay có thể khẳng định Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình giảm nghèo bền vững của tỉnh Thanh Hóa đã góp phần rất quan trọng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư đồng bộ, khang trang, môi trường, cảnh quan nông thôn ngày càng sáng – xanh – sạch – đẹp; đời sống văn hóa, tinh thần người dân nông thôn được nâng lên, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy tốt.
Trong thời gian tới, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, Thanh Hóa có 166 xã, phường (19 phường, 147 xã), trong đó có 76 xã khu vực miền núi với 45 xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới đều là các vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi khó khăn khu vực I, II; đặc biệt khó khăn khu vực III. Trên cơ sở mục tiêu, định hướng của Trung ương, Thanh Hóa phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, tương đương với 117 xã, trong đó 35% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, tương đương 41 xã; 10% số xã đạt nông thôn mới hiện đại, tương đương 12 xã; tỉ lệ nghèo đa chiều giảm còn dưới 1%.
Để đạt mục tiêu trên, Thanh Hóa kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các ban bộ ngành cơ quan trung ương để Thanh Hóa tiếp tục thực hiện thắng lợi mục tiêu chương trình trong giai đoạn tới.
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang: Tại hội nghị này, tôi xin báo cáo và kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Về công tác chỉ đạo, điều hành, tỉnh Quảng Ngãi đã kịp thời lập Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia các cấp và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên thực hiện.
Về kết quả phân bổ và giải ngân vốn: Tổng nguồn vốn các chương trình mục tiêu quốc gia được phân bổ cho tỉnh là 1.940 tỷ đồng. Chương trình giảm nghèo bền vững: Kết quả giải ngân ngân sách Trung ương đạt 57%, ngân sách địa phương đạt 54%. Chương trình xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2021-2025): Vốn phân bổ là 1.940 tỷ đồng. Kết quả giải ngân: vốn Trung ương đạt 3,5%, vốn đầu tư đạt 13,5% và vốn sự nghiệp đạt 65%.
Kết quả đạt được một số chỉ tiêu quan trọng: Toàn tỉnh có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh giai đoạn 2021-2025 đã giảm từ 9% xuống còn 2,5% vào cuối năm 2025.
Hiện nay toàn tỉnh còn 5 huyện miền núi hưởng ngân sách Trung ương vẫn còn nhiều hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm 1,76% hộ nghèo, vượt chỉ tiêu Trung ương giao là 0,26%. Tỉ lệ hộ nghèo đầu kỳ trên địa bàn cấp huyện từ 43% dự kiến giảm xuống còn 6,84% vào cuối năm 2025…
Chất lượng cuộc sống người nghèo được cải thiện, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển. Các huyện miền núi được đầu tư đáng kể, nhiều mô hình kinh tế, hỗ trợ sản xuất, giải quyết việc làm được triển khai hiệu quả.
Một số khó khăn, vướng mắc
Về chính sách an sinh xã hội: Các xã cần xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh đa phần là các xã miền núi đặc biệt khó khăn. Các xã thuộc vùng khó khăn khi đạt chuẩn nông thôn mới (từ xã khu vực III xuống khu vực I) thì không còn được hưởng các chế độ an sinh xã hội (bảo hiểm y tế, hỗ trợ gạo cho học sinh, chế độ cho cán bộ, sinh viên...). Điều này ảnh hưởng đến lợi ích của người dân và không tạo động lực khuyến khích để các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới trong khi điều kiện các xã miền núi còn nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội, do đó chưa hoàn thành đạt mục tiêu đề ra. Chính sách này khi thoát nghèo lại không còn được hỗ trợ nên người dân không mặn mà
Về tiêu chí nông thôn mới: Một số tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu yêu cầu quá cao như tiêu chí về thu nhập, chất lượng môi trường sống, đặc biệt là tỉ lệ hộ sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung còn rất thấp. Hiện nay, Trung ương quy định quá cao, đạt từ 50% trở lên.
Về điều chỉnh vốn: Việc điều chỉnh vốn đầu tư công nguồn Trung ương giữa các dự án trong chương trình thuộc thẩm quyền của Trung ương nên địa phương không thể chủ động điều chỉnh.
Về chính sách giảm nghèo: Chính sách chưa bao phủ toàn diện, các chỉ số thiếu hụt, chưa tác động trực tiếp, đầy đủ đến các vấn đề cốt lõi của hộ nghèo như nhà ở, nước sạch, vệ sinh và đặc biệt là đối với các hộ không có khả năng lao động.
Để triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, tỉnh Quảng Ngãi đề xuất, kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương xem xét một số nội dung sau:
- Đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành bộ tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2026-2030, bảo đảm phù hợp với thực tiễn, phân rõ vùng miền (miền núi, đồng bằng, ven biển) để không tạo áp lực quá lớn cho các xã vùng khó khăn.
- Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm ban hành hướng dẫn nguyên tắc rà soát, xác định mức độ đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao đối với các xã sau sáp nhập. Đồng thời, tham mưu hoàn thiện chính sách giảm nghèo giai đoạn 2026-2030 theo chỉ số thiếu hụt, trong đó ban hành chuẩn nghèo mới gắn liền với các chỉ số thiếu hụt mà chính sách có thể tác động được.

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn: Đắk Lắk phấn đấu số xã đạt chuẩn nông thôn mới sau sắp xếp, sáp nhập đạt 68/88 xã, đạt tỉ lệ 77% - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn: Thứ nhất, so với mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2021-2025 về xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của tỉnh, Đắk Lắk đều đạt và vượt chỉ tiêu đặt ra. Tuy nhiên, so với bình quân chung của khu vực Tây Nguyên cũng như cả nước, hiện nay đối với chỉ tiêu mục tiêu cụ thể về xây dựng nông thôn mới, tỉ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới của Đắk Lắk vẫn còn thấp, đạt 54,3%. Trong đó, có 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 1 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, và 1 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Đắk Lắk có 329 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên.
Về công tác giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều, tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm hơn 2,14%/năm, từ 12,79% cuối năm 2021 đến nay còn 6,38%. Đặc biệt, tỉ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 4,34%, từ 26,74% cuối năm 2021 xuống còn 13,71% cuối năm 2024. Trong đó, tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm hơn 5,06%, đều đạt và vượt các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
Tuy nhiên, tỉnh Đắk Lắk có rất nhiều khó khăn, trong đó có 2 khó khăn chính. Thứ nhất, Đắk Lắk là tỉnh miền núi, diện tích rộng và có 54 xã thuộc vùng III, nên việc đạt tiêu chí về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn rất khó thực hiện. Đặc biệt, tỉnh có hơn 50% đường giao thông nông thôn chưa được cứng hóa trong tổng số 16.000 km đường giao thông các loại. Ngoài ra, tỉ lệ xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới còn cao, chiếm 45,6%, đều là những xã có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nên cần nguồn đầu tư rất lớn.
Thứ hai là tỉ lệ hộ nghèo nói chung và tỉ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay vẫn còn cao so với mặt bằng chung các tỉnh Tây Nguyên. Đến cuối năm 2024, tỉ lệ hộ nghèo còn 6,38%, tỉ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số còn 13,71%. Số lượng hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhà ở dột nát, có nhu cầu hỗ trợ xây dựng, sửa chữa còn nhiều và thu nhập bình quân của hộ nghèo hiện còn rất thấp.
Trên cơ sở các chỉ tiêu dự kiến đặt ra cho hệ thống mới, tỉnh Đắk Lắk nhận thấy tình hình còn khó khăn với điều kiện của tỉnh. Sau khi thực hiện việc sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, đây là một thách thức rất lớn đòi hỏi nỗ lực hết sức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cùng với sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng các dân tộc tỉnh Đắk Lắk, cũng như sự chung tay hỗ trợ của các doanh nghiệp, của Trung ương. Tỉnh Đắk Lắk cũng đang nỗ lực thực hiện kế hoạch và các mục tiêu trong giai đoạn tới.
Đắk Lắk phấn đấu số xã đạt chuẩn nông thôn mới sau sắp xếp, sáp nhập đạt 68/88 xã, đạt tỉ lệ 77%, thấp hơn một chút so với mục tiêu chung của Trung ương. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao là 13/68 xã, đạt tỉ lệ 19%. Và số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu là 7/68 xã, đạt 10,3%.
Tỉ lệ nghèo giảm bình quân là 2%/năm. Tỉ lệ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025.
Hiện nay, đối với các mục tiêu trong giai đoạn mới, Đắk Lắk đề nghị với Trung ương xem xét các tiêu chí để phân bổ vốn cho tỉnh cần xem đến các yếu tố sau:
Thứ nhất là diện tích tự nhiên phủ nông thôn, bao gồm cả diện tích đất nông thôn, tổng số km đường giao thông nông thôn cần đầu tư.
Thứ hai là tỉ lệ hộ nghèo, tỉ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn để đảm bảo công bằng giữa các vùng, các địa phương. Nếu không, sẽ dễ phát sinh trong việc đạt chuẩn nông thôn mới giữa vùng miền núi và vùng đồng bằng, ngày càng lớn.

Các đại biểu tham dự Hội nghị tại điểm cầu Trụ sở Chính phủ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước Tôn Ngọc Hạnh: Về cơ bản, kết quả triển khai hai chương trình tại Bình Phước trong thời gian qua đã mang lại nhiều chuyển biến rõ rệt. Diện mạo nông thôn có sự thay đổi lớn; hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư khang trang, đồng bộ hơn. Đặc biệt, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được cải thiện. Đây chính là những thành quả thiết thực, góp phần vào thành công chung của Chương trình Xây dựng nông thôn mới.
Về Chương trình Giảm nghèo bền vững, tỉnh Bình Phước xác định mục tiêu đến cuối năm 2025 sẽ không còn hộ nghèo. Những năm qua, tỉnh đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ giảm nghèo, đặc biệt tập trung vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi năm giảm bình quân khoảng 1.000 hộ nghèo. Nhờ nỗ lực đó, đến thời điểm này, tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh chỉ còn khoảng 0,2%, và tỉnh đang quyết tâm hoàn thành mục tiêu không còn hộ nghèo trong năm nay.
Bình Phước cũng đã hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các hộ khó khăn, là một trong những địa phương về đích sớm so với tiến độ Trung ương đề ra, ngay trong dịp lễ 30/4 – 1/5 vừa qua.
Về Chương trình Xây dựng nông thôn mới, hiện toàn tỉnh còn 05 xã chưa đạt chuẩn trong tổng số 111 xã, phường. Những xã này phần lớn có địa bàn rộng, dân cư thưa, và gặp một số khó khăn nhất định trong việc huy động nguồn lực. Đặc biệt, có hai xã đang vướng mắc liên quan đến điều chỉnh quy hoạch khai thác bauxite – cần hoàn tất thủ tục quy hoạch mới có thể tiếp tục đầu tư các hạng mục còn lại. Đối với ba xã còn lại, tỉnh đã có kế hoạch đầu tư trong năm 2025.
Thời gian tới, khi tỉnh tiến hành sắp xếp tổ chức lại bộ máy hành chính và nhân sự, chúng tôi tin tưởng sẽ có thêm dư địa và điều kiện thuận lợi để tiếp tục đầu tư, hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới cho những xã này. Hiện tỉnh Đồng Nai đã hoàn thành chương trình nông thôn mới cấp tỉnh, Bình Phước vẫn còn một số xã vùng sâu, vùng xa gặp khó khăn về hạ tầng. Do đó, đầu tư hạ tầng giao thông để đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu là một áp lực lớn, nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới.
Bên cạnh đó, một số xã tại Bình Phước từng triển khai chương trình nông thôn mới từ rất sớm – những năm 1997-1998 – đến nay đã đạt chuẩn nâng cao, thậm chí kiểu mẫu, và đang hướng đến ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật và chuyển đổi số.
Tỉnh đã có những đề xuất cụ thể với Trung ương, trong đó nhấn mạnh nhu cầu cần sớm điều chỉnh một số nội dung để đảm bảo tổ chức thực hiện các chương trình được nhanh chóng và hiệu quả. Đặc biệt, một số chương trình trước đây hiện nay đã hết đối tượng thụ hưởng, không thể giải ngân, nên cần sự điều chỉnh kịp thời về chính sách.
Về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, chúng tôi đánh giá cao việc Trung ương đã có chủ trương điều chuyển linh hoạt các nguồn vốn giữa các dự án. Điều này tạo thuận lợi rất lớn cho tỉnh trong việc triển khai các nội dung tiếp theo.
Bình Phước cam kết sẽ nỗ lực, quyết tâm cao độ, tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, phấn đấu đưa 05 xã còn lại đạt chuẩn nông thôn mới trong năm 2025.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An Huỳnh Văn Sơn: Để thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Long An, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Long An đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh cho đến cơ sở. Đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu của các đơn vị, địa phương trong việc thực hiện các chương trình tập trung triển khai đồng bộ có nhiều giải pháp và hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo việc làm để nâng cao thu nhập cho người dân. Thúc đẩy hai phong trào cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới và vì người nghèo không để ai bị bỏ lại phía sau, với nhiều hình thức đa dạng phong phú thiết thực phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Long An.
Về công tác chỉ đạo điều hành, tỉnh đã kịp thời ban hành 99 văn bản cho hai chương trình nêu trên. Nhìn chung các văn bản chỉ đạo điều hành của tỉnh trong quá trình thực hiện hai chương trình đều kịp thời, đúng quy định của Trung ương và phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, phục vụ kịp thời cho việc điều hành thực hiện chương trình trên địa bàn tỉnh. Các cơ chế, chính sách trong thực hiện xây dựng nông thôn mới cũng được triển khai hiệu quả và đưa nông thôn mới ngày càng đi sâu vào thực chất và được nhân dân ủng hộ.
Về phân bổ vốn, công tác sử dụng nguồn vốn, nguồn lực để xây dựng chương trình xây dựng nông thôn mới được tỉnh thực hiện rất kịp thời và đúng quy định của Trung ương và với thực tế của tỉnh. Đặc biệt, tỉnh cũng quy định cụ thể các nguyên tắc, nội dung, tiêu chí phân bổ vốn của địa phương, trong đó ưu tiên phân bổ các chương trình phúc lợi của các địa phương được công nhận nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu. Tổng số vốn tỉnh Long An huy động xây dựng chương trình giai đoạn 2021- 2025 là gần 300 nghìn tỷ đồng.
Đến nay Long An có 7/15 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành xây dựng nông thôn mới và 2 huyện đạt nông thôn mới nâng cao. Về xã Long An có 142/160 xã nông thôn mới chiếm 88% và 10 xã nông thôn mới kiểu mẫu đạt 106% so với kế hoạch đề ra.
Công tác xã hội hóa cho hộ nghèo được quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục đã góp phần cho công tác giảm nghèo đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hiện nay tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm mạnh năm 2025 là 0,56%. Tình hình an sinh xã hội được đảm bảo, hạ tầng nông thôn được đồng bộ.
Về khó khăn vướng mắc: Trên địa bàn tỉnh còn một số địa phương chưa thực hiện tốt việc tìm hiểu tâm tư cũng như nguyện vọng của người dân; vẫn còn trường hợp tái nghèo, hộ đủ điều kiện thoát nghèo thì không muốn thoát nghèo; người dân còn thụ động; vẫn còn trường hợp người dân trông chờ ỉ lại vào sự giúp đỡ hỗ trợ của nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều dự án thành phần trong chương trình giảm nghèo chưa triển khai thực hiện do quy định chưa rõ, thiếu hướng dẫn của Trung ương.
Về định hướng phát triển trong thời gian tới, Long An có 3 đề xuất kiến nghị:
Thứ nhất là ban hành đồng bộ các cơ chế chính sách để thực hiện các chương trình ngay trong năm 2025 để các địa phương thực hiện từ năm 2026.
Thứ hai là đề nghị có chủ trương thống nhất trên địa bàn nông thôn có một chương trình mục tiêu quốc gia là chương trình xây dựng nông thôn mới, với mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân, giảm nghèo và giảm khoảng cách trên địa bàn, thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Có kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại, môi trường đảm bảo, hệ thống chính trị vững mạnh, an ninh chính trị an toàn quốc phòng đảm bảo.
Thứ ba, đề nghị Trung ương sớm ban hành quy định về thống nhất bộ máy của Ban chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia nhằm đảm bảo tính tiên phong, đồng bộ và hiệu quả trong suốt quá trình thực hiện chương trình.

Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến phát biểu - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhận thức đây là 2 chương trình rất quan trọng. Phụ nữ vừa là người trực tiếp tham gia, vừa là người được hưởng thụ các chương trình này nên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam rất tích cực tham gia và đạt được những kết quả rất quan trọng.
Về trách nhiệm tham gia chương trình, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cùng với các địa phương đã thực hiện đưa chương trình này vào hoạt động của Hội trong suốt những năm vừa qua, đặc biệt giai đoạn 2021-2025, đã cụ thể hóa những tiêu chí của Chương trình Xây dựng nông thôn mới và Chương trình Giảm nghèo vào các chương trình cụ thể của Hội Phụ nữ, thực hiện tốt các phong trào do Trung ương phát động. Đặc biệt, cụ thể hóa phong trào "5 không 3 sạch" đối với phụ nữ cả nước, thực hiện các đề án mà Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo triển khai như Đề án Phụ nữ khởi nghiệp; Đề án 939, 938 và cụ thể hóa vào các tiêu chí về thi đua khen thưởng đối với Hội Phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ vay vốn phát triển kinh tế. Hiện nay, qua hình thức ủy thác của Hội Phụ nữ qua Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp với tổng số vốn khoảng 180.000 tỷ đồng, riêng Ngân hàng chính sách, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện ủy thác qua hệ thống này khoảng 160.000 tỷ đồng trên tổng số dư nợ 410.000 tỷ đồng, chiếm tỉ trọng dư nợ của Ngân hàng Chính sách khoảng gần 40%.
Hội cũng đã tích cực tham gia triển khai các tiêu chí về môi trường, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và thực hiện các chương trình như "Đường có hoa, nhà có số"; đặc biệt tham gia xây dựng hệ thống chính trị của địa phương. Chính từ những chỉ đạo đó, phụ nữ đã đóng góp 13/19 tiêu chí của Chương trình Xây dựng nông thôn mới và 5 năm qua, chúng tôi đã đảm nhận khoảng 65.358 phần việc, công trình của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ cho 18.058 gia đình phụ nữ thực hiện chương trình; hỗ trợ phụ nữ vùng dân tộc thiểu số, miền núi xây dựng các nhà vệ sinh bảo vệ môi trường, sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh; hỗ trợ phụ nữ triển khai các mô hình khởi nghiệp sản xuất các sản phẩm OCOP góp phần chung cho chương trình trong cả nước.
Từ nội dung trên, chúng tôi kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương, tới đây, khi hợp nhất 2 chương trình này, tiếp tục tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện các chương trình khởi nghiệp, đặc biệt góp phần cho phụ nữ thực hiện một cách trực tiếp vào Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Tiếp tục tạo điều kiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ủy thác của vốn từ ngân sách của các địa phương để nâng cao số dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã, đồng thời tạo điều kiện cho phụ nữ có thể tiếp cận nhiều hơn với các nguồn vốn của Trung ương. Đề nghị tiếp tục hỗ trợ để phụ nữ thực hiện chương trình phụ nữ đồng hành với biên cương để hỗ trợ cho vùng dân tộc thiểu số.

Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam Bế Xuân Trường: Khi đi làm công tác tuyên truyền, vận động, dù gặp nhiều khó khăn, phức tạp, cựu chiến binh vẫn luôn gương mẫu đi đầu và được nhân dân tin tưởng, được cấp ủy, chính quyền đánh giá cao - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam Bế Xuân Trường: Có thể nói, Đảng và Nhà nước trong nhiều năm qua đã có rất nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội để đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới. Từ các chương trình như 134, 135, 30a trước đây cho đến các chương trình mục tiêu quốc gia hiện nay.
Tôi nhận thấy từ khi có các chương trình này, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ đứng ra tổ chức thực hiện, bộ mặt nông thôn Việt Nam nói chung, các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, ven biển, hải đảo nói riêng đã có những bước phát triển rất tốt. Có thể khái quát rằng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã từng bước được nâng cao và cải thiện. Điều này thể hiện bản chất ưu việt của chế độ, và qua đó, người dân càng tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đối với Hội Cựu chiến binh Việt Nam, chúng tôi là những người đã trải qua các cuộc chiến tranh, từ chống Pháp, chống Mỹ đến chiến tranh biên giới. Có thể nói, sứ mệnh của chúng tôi với Đảng, Tổ quốc và nhân dân đã hoàn thành. Giai đoạn sau này là sứ mệnh của thế hệ trẻ. Nhưng do Đảng, Nhà nước yêu cầu, chúng tôi lại tiếp tục nhận nhiệm vụ và rất trân trọng. Như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói khi còn sống: "Các đồng chí đã là Bộ đội Cụ Hồ thì mãi mãi là Bộ đội Cụ Hồ." Chúng tôi thấm thía sâu sắc điều này.
Chính vì vậy, thời gian vừa qua, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, cùng với các tổ chức đoàn thể xã hội, đã luôn tích cực, chủ động phối hợp, làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương thực hiện thắng lợi các chương trình mục tiêu quốc gia. Cựu chiến binh luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào, đặc biệt là phong trào Đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng" góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Chúng tôi cũng tích cực vận động nhân dân thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia. Chúng tôi chia sẻ sâu sắc với đồng bào, với nhân dân cả nước, bởi trong những năm tháng chiến tranh, chính nhờ có nhân dân, có đồng bào mà quân đội, người lính chúng tôi mới hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc, với nhân dân. Và bây giờ, mục tiêu ấy vẫn là kim chỉ nam xuyên suốt. Chúng tôi luôn trân trọng và mãi mãi biết ơn nhân dân. Chính vì lẽ đó, khi đi làm công tác tuyên truyền, vận động, dù gặp nhiều khó khăn, phức tạp như trong công tác giải tỏa mặt bằng để thực hiện các dự án hạ tầng phát triển các khu công nghiệp... chúng tôi vẫn luôn gương mẫu đi đầu và được nhân dân tin tưởng, được cấp ủy, chính quyền đánh giá cao.
Hôm nay, tổng kết chương trình này, tôi rất đồng thuận với các ý kiến đóng góp, đặc biệt là các báo cáo sâu sắc của các đồng chí Bộ trưởng đầu ngành. Các báo cáo đã có sự kiểm điểm, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ. Đặc biệt với các cơ chế, chính sách đã ban hành, thực thiện vẫn còn những điểm bất cập. Hôm nay, các đồng chí đã tiếp thu, đề xuất điều chỉnh, bổ sung, kiến nghị với Quốc hội và Nhà nước ban hành các văn bản luật, nghị định để có cơ chế, chính sách phù hợp và đi vào lòng dân. Điều đó có nghĩa là, ngoài chính sách chung, cần có chính sách đặc thù cho các vùng miền, các dân tộc, để người dân hiểu rằng họ cũng có những chính sách rất đặc thù, rất đặc biệt, từ đó có ý thức vươn lên, tự khẳng định mình.
Đối với cựu chiến binh, chúng tôi xin hứa với Chính phủ và các đồng chí sẽ tiếp tục là lực lượng nòng cốt chính trị, đặt biêt ở địa phương, gương mẫu đi đầu, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các cuộc vận động, các phong trào thi đua ngày càng hiệu quả thực sự mang lại cái đích cuối cùng là để người dân được hưởng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và ngày càng văn minh, hiện đại.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường: Giai đoạn tới, việc thiết kế chương trình nông thôn mới và xóa nghèo bền vững phải khác trước - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ông Nguyễn Xuân Cường – Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Đầu tiên, chúng tôi rất nhất trí với Chính phủ là chúng ta tổng kết hai chương trình mục tiêu trước 5 năm so với kế hoạch của kỳ 2021-2025. Bởi lẽ chúng ta đang tập trung vào công tác đổi mới hành chính và thực hiện chính quyền địa phương hai cấp kể từ 1/7 tới đây. Chính vì thế, việc tập trung tổng kết hai chương trình này sẽ tạo cơ sở về thời gian để tới đây tất cả các địa phương có quỹ thời gian, công tác chuẩn bị bắt tay vào tiếp nối chương trình một cách chủ động và có cơ sở.
Cuộc tổng kết này không chỉ tổng kết cho giai đoạn 2021-2025 mà bản chất đây là tổng kết cho cả ba kỳ, từ 2010 đến hết 2025. Bởi lẽ, hai chủ thể lớn là cấp huyện và cấp xã tới đây sẽ hoàn toàn khác. Không còn cấp huyện nữa, cấp xã thì từ hơn 10.000 còn hơn 3.000, cấu trúc và quy mô cấp xã hoàn toàn khác.
Chính vì thế, cuộc tổng kết này đúng thời điểm, rất chủ động, và hàm ý là tổng kết cả ba giai đoạn của ba kỳ phát triển. Hai chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo bền vững là hai chương trình hành động cụ thể, bao trùm, toàn thể để chúng ta thực hiện Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương khóa 10 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Về kết quả, ba vấn đề lớn bao trùm là nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những vấn đề rất lớn của thế giới, nói đúng hơn là của những nước đang phát triển chứ không riêng Việt Nam. Nhưng lần đầu tiên chúng ta đưa vào cấu trúc một Nghị quyết, đó là Nghị quyết 26, để từ đó đề ra mục tiêu, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, rõ ràng nhằm tạo đột phá cho ba lĩnh vực này.
Bối cảnh năm 2010, xuất phát điểm của chúng ta không cao. GDP Việt Nam lúc đó mới được 104 tỷ USD. Khu vực nông thôn, nông nghiệp, nông dân rất cần đột phá, trong khi tiềm lực đất nước không lớn, thu ngân sách không cao, và Việt Nam đang cùng thế giới chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Lấy đâu ra nguồn lực lớn như thế? Nhưng chúng ta đã quyết tâm cao về ý thức chính trị bằng một Nghị quyết tập trung, sau đó là hai chương trình cốt lõi.
Kiểm lại qua ba kỳ, 15 năm, đến giờ phút này, kết quả đầu tiên chúng ta khẳng định chủ trương xây dựng Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là hoàn toàn chính xác. Chính vì thế, chúng ta đã tạo ra đột phá, huy động tổng sức người, sức của của toàn xã hội. Qua 15 năm, chúng ta đã huy động được gần 10 triệu tỷ Việt Nam đồng đầu tư cho chương trình phát triển nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Một con số khổng lồ về giá trị. Chính vì thế, đã góp phần quan trọng hoàn thiện một bộ phận cơ bản các thiết chế hạ tầng phục vụ đời sống, sản xuất cho dân sinh khắp các miền của Tổ quốc. Đây là một kết quả bao trùm mà ai cũng nhận thức được, ai cũng thừa nhận, thế giới cũng thừa nhận.
Kết quả thứ hai là chúng ta thay đổi cục diện sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn qua các chương trình như tái cơ cấu nông nghiệp, giữ gìn phát triển làng nghề, du lịch nông thôn và đặc biệt là chương trình OCOP. Chương trình OCOP bắt nguồn từ Quảng Ninh năm 2014, đến nay chúng ta tự hào có 16.500 sản phẩm, thay đổi hẳn nhận thức của người nông dân trong tư duy sản xuất hàng hóa.
Kết quả thứ ba, diện mạo nông thôn được đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rất rõ nét. Năm 2010, thu nhập vùng nông thôn là 12,8 triệu đồng. Đến nay là 54 triệu, và dự kiến cuối năm là 58 triệu, tức là gấp hơn 4 lần. Về giảm nghèo, năm 2010 là 14,2%, đến bây giờ tỉ lệ nghèo đa chiều chỉ còn 1,93%. Đó là những thành tựu vô cùng lớn.
Cuối cùng, chính việc có chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới và giảm nghèo bền vững đã góp phần cho bức tranh phát triển của Việt Nam 15 năm qua khá toàn diện.
Về định hướng tới đây, báo cáo của các cơ quan đã có những chấm phá về nguyên tắc, mục tiêu, khái quát chương trình. Nhưng giai đoạn tới có những đặc điểm rất đặc trưng: Đô thị hóa sẽ đạt khoảng 50% vào năm 2030, đặt ra nhiệm vụ cho nông thôn hoàn toàn khác trước. GDP đạt gần 476 tỷ USD, chúng ta đã ở mức nước thu nhập trung bình, nhưng việc vượt qua bẫy thu nhập trung bình là một quãng đường rất dài. Thế giới biến đổi phức tạp về địa chính trị và biến đổi khí hậu, mà Việt Nam là một trong những nước chịu tổn thương lớn nhất. Dân số vượt 100 triệu, nhưng chúng ta chỉ còn 15-20 năm dân số vàng. Không tranh thủ được thì "chưa giàu đã già". Chính vì tình hình đó, giai đoạn tới, việc thiết kế chương trình nông thôn mới và xóa nghèo bền vững phải khác trước. Chính phủ cho tổng kết sớm là rất trúng.
Chúng tôi kiến nghị nên thiết kế chương trình một cách chủ động trên nền tảng thành quả 15 năm qua, vị thế đất nước hiện nay và tình hình thế giới, tận dụng cơ hội của giai đoạn 4.0 và khắc phục rủi ro. Việc thiết kế phải chủ động nhưng phải rất nhanh. Nếu tháng 10 không kịp trình Quốc hội thì sẽ không có nguồn lực cho giai đoạn tới. Do đó, cần thiết kế nhanh, thậm chí tổ chức thêm các phiên hội thảo để xây dựng đề án hai chương trình này một cách thiết thực, đột phá và khả thi, kịp trình xin chủ trương của Đảng và xin ý kiến Quốc hội ban hành nghị quyết. Khung nội dung mà Bộ Nông nghiệp đề xuất như vậy là được rồi. Nhưng khi thiết kế cụ thể, nên tổ chức thêm hội thảo để xây dựng cho thiết thực, để khi chúng ta thực hiện tổ chức hành chính mới cũng là lúc bắt tay vào các chương trình mới này.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan: Xây dựng nông thôn mới không còn là chương trình của nhà nước mà đã thực sự là chương trình của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan: Nông thôn là di sản. Từ di sản, truyền thống được bảo tồn, nuôi dưỡng trong lời kể, trong tư liệu lịch sử, đến di sản giàu sức sống của cư dân nông thôn, đang được phát huy, lan tỏa giá trị mỗi ngày.
Chúng ta đã thấy giá trị, bản sắc nông thôn tự tin hiện diện trong các tác phẩm văn hóa nghệ thuật của giới trẻ ngày nay, như cách mà bài hát Bắc Blinh hay là bài rock Hạt gạo được đón nhận rất nồng nhiệt trong thời gian gần đây, với các ca từ rất giàu cảm xúc: "Tình quê son sắc keo sơn, hương đồng gió nội cây rơm đợi chờ" hay "Gạo là tên của tôi, mời anh chị ngồi chơi cùng nghe rock về hạt gạo".
Từ lúc triển khai chương trình đến nay, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt kết quả to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử. Giờ đây, câu hỏi không phải là làm gì cho nông thôn mà là làm sao để mỗi người dân nông thôn trở thành một chủ thể của sự thay đổi. Làm sao để nông thôn mới không chỉ gắn bó với người làng hôm nay mà còn là miền quê đáng sống, luôn muốn tìm về với những người trẻ lớn lên, học tập, làm việc giữa thành thị mai sau.
Chúng ta đang bước vào một bối cảnh hoàn toàn khác. Sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính là một quyết định chiến lược nhằm tinh gọn bộ máy, tăng cường hiệu quả điều hành. Định hướng phân cấp, phân quyền sâu hơn đến cấp cơ sở, cấp thực thi, vận hành trực tiếp là cơ hội để địa phương phát huy tính lao động, sáng tạo. Sự đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là điều kiện để đưa tiến bộ về tận thôn xóm, bản làng.
Xây dựng nông thôn mới với không gian cấp tỉnh, cấp xã rộng lớn hơn, phải có tiếp cận khác hơn. Cán bộ cấp cơ sở không chỉ dựa vào các tiêu chí cứng mà cần có sự sáng tạo dựa trên đặc điểm của mỗi địa phương. Không gian phát triển cấp xã không chỉ là không gian sản xuất mà là không gian tích hợp văn hóa, xã hội, cộng đồng, trong đó năng lực, tri thức của cư dân nông thôn là yếu tố quyết định.
Quan trọng nhất là niềm tin, là sự chủ động, sự sẵn lòng thích ứng với sự thay đổi của người dân đã trở thành nguồn lực mạnh mẽ nhất. Xây dựng nông thôn mới không còn là chương trình của nhà nước mà đã thực sự là chương trình của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Giai đoạn mới cần tư duy mới, định hướng tiếp cận mới. Tôi xin phép gợi mở một số hướng tiếp cận như sau.
Thứ nhất, cộng đồng chính sách, cộng hưởng chính sách, hợp nhất chương trình. Chúng ta thực hiện cùng lúc chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Hai chương trình này có nhiều điểm giao thoa, mục tiêu tương đồng. Do vậy, tôi đề xuất hướng tích hợp, hướng tới hợp nhất, tích hợp hai chương trình để giảm phân mảnh, tăng hiệu quả sử dụng linh hoạt nguồn lực, cùng hướng đến mục tiêu chung, không chỉ cải thiện thu nhập mà còn nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Xây dựng nông thôn không chỉ giàu có mà còn hạnh phúc. Giảm nghèo bền vững không chỉ dừng lại ở việc trao cần câu thay vì trao con cá mà còn phải hướng dẫn cách thức câu cá, kiên trì đồng hành để khơi gợi tinh thần câu cá, thái độ sống, làm việc đúng đắn, tự lực, tự chủ, không bỏ cuộc. Cách tiếp cận mới đặt người khó khăn vào vị trí chủ thể, khơi dậy động lực của chính bản thân thay vì chỉ trông chờ vào sự trợ giúp ở bên ngoài.
Thứ hai, từ tiêu chí cứng sang năng lực mềm. Giai đoạn đầu chúng ta đã dành nguồn lực cho hạ tầng nông thôn thì giai đoạn tới cần tập trung cho hạ tầng con người. Nâng cao năng lực cộng đồng để mỗi thôn, mỗi xã có thể tự mình có những sáng kiến, sáng tạo, chủ động tham gia, góp phần quản lý dự án, giám sát công trình, tự chủ trong mỗi hành động hằng ngày. Tri thức hóa nông dân, cư dân nông thôn không chỉ học kỹ thuật sản xuất mà học quản trị, tham gia các lớp bình dân học vụ số, học truyền thông, học liên kết, học cách thương mại hóa, học cách kể chuyện sản phẩm của mình làm ra. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo từ dưới lên. Mỗi mô hình kinh tế tập thể, làng nghề, tổ hợp tác, hội quán nông dân là một hạt giống cải cách và đổi mới.
Thứ ba, kinh tế nông thôn không chỉ là nông nghiệp. Khi sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu nhiều rủi ro về thời tiết, giá cả, dịch bệnh thì việc đa dạng hóa sinh kế là một yêu cầu sống còn. Kinh tế nông thôn cần phát triển cả dịch vụ, du lịch, làng nghề, sản phẩm OCOP, logistics. Hộ gia đình không chỉ là hộ nông dân trồng trọt, chăn nuôi mà là nhà sản xuất, nhà kinh doanh và nhà quảng bá sản phẩm của mình. Tổ chức kinh tế cộng đồng như hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương là điểm tựa để gia tăng giá trị, hài hòa lợi ích, san sẻ rủi ro.
Thứ tư, kết nối thị trường, đưa khoa học công nghệ, tri thức về làng. Lợi thế nông nghiệp của đất nước khó có thể được phát huy hết nếu không thể kết nối trí tuệ của các nhà khoa học từ các viện, trường đến ruộng đồng. Cần có một hệ thống khuyến nông cộng đồng, nơi người dân nông thôn không chỉ học kỹ thuật mà được trao đổi trực tiếp với các nhà khoa học, chuyên gia, sinh viên tình nguyện. Mỗi làng quê đều có thể trở thành một phòng thí nghiệm sống động để thử nghiệm những giải pháp nông nghiệp tuần hoàn, phục hồi môi trường, tạo thêm nhiều sinh cảnh dọc theo những con sông, con đường, khu trung tâm. Mỗi hộ gia đình biết tiết kiệm nước, sử dụng năng lượng tái tạo, đổi mới giống cây, giống con, phát huy giá trị thực vật bản địa, kết hợp với những nghề mới như trồng dược liệu, cây gia vị,…
Thứ năm, thay đổi tư duy lập quy hoạch nông thôn. Sau khi hợp nhất không gian hành chính cấp xã, chắc chắn phải điều chỉnh lập quy hoạch mới. Quy hoạch xã không chỉ là quy hoạch sản xuất nông nghiệp, trồng cây gì hay nuôi con gì, là quy hoạch kết cấu hạ tầng. Quy hoạch xã quan trọng hơn là định hình khu vực kinh tế nông thôn. Trong không gian đó, làng nghề truyền thống được phục hồi, tạo ra các ngành nghề mới cho nông thôn, khu vực chế biến nông sản, phát triển du lịch cộng đồng. Quy hoạch nông thôn cần được xem là bản marketing để giới thiệu, thu hút đầu tư bên ngoài, khuyến khích người ở làng tham gia phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, xúc tiến đầu tư, khởi nghiệp nông nghiệp với các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp số.
Thứ sáu, từ làng quê nông thôn đến làng thông minh, làng hạnh phúc. Tôi mong chương trình nông thôn mới giai đoạn tới sẽ không dừng lại ở đạt chuẩn mà bước tới những mô hình mới. Làng thông minh có kết nối internet, có dữ liệu sản xuất, có mô hình sản xuất thông minh. Làng hạnh phúc nơi không chỉ có thu nhập mà có niềm vui, sự sẻ chia, văn hóa cộng đồng được bảo tồn, người già được quan tâm, trẻ em được học hành, bình đẳng giới được bước vào từng ngôi nhà, từng cộng đồng. Bởi mục tiêu cuối cùng của phát triển không phải những con số mà là nâng cao chất lượng sống cho từng người dân.
Hành trình nông thôn mới, giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều việc phải làm. Tôi tin rằng nếu chúng ta tiếp tục đồng lòng, tiếp tục lắng nghe tiếng nói của cộng đồng, tiếp tục tạo không gian cho những sáng kiến ở địa phương thì nông thôn Việt Nam sẽ không chỉ mới về hìn h thức mà mới cả trong tư duy, trong cách sống, cách làm ăn và cách gắn kết. "Người nghèo nghèo cái túi, người giàu giàu ở cái đầu"- Tựa tiêu đề một tựa sách gợi lên nhiều suy ngẫm về tinh thần học tập suốt đời, những mô hình sách hóa nông thôn đang diễn ra gần đây. Với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau như thông điệp của Thủ tướng Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh, sự kiên trì đồng hành từ mỗi chúng ta, sự thấu hiểu từng hoàn cảnh khó khăn để chọn lọc, hỗ trợ sinh kế phù hợp, khuyến khích tinh thần vượt khó, vươn lên, sẽ góp phần giúp chất lượng sống của những người có điều kiện khó khăn ngày càng được cải thiện.
Xin gửi đến quý lãnh đạo, quý đại biểu tham dự hội nghị, lời văn mộc mạc nhắc nhở mỗi người chúng ta về việc mình cần làm, về trách nhiệm và bổn phận, về tình cảm gắn kết chan hòa với nông thôn, nông dân. Đó là: "Tôi sinh ra ở nông thôn. Ba mẹ tôi là nông dân".

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao công tác chuẩn bị và các báo cáo, ý kiến tại Hội nghị; khẳng định tính đúng đắn, cần thiết của việc tổng kết các Chương trình ngay trong tháng 6/2025 (trước 6 tháng so với kế hoạch) và trước khi cả nước vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp từ ngày 1/7/2025, sẵn sàng cùng cả nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Cac báo cáo, tham luận, ý kiến phát biểu tâm huyết, sâu sắc, sát thực tiễn tại Hội nghị đã khẳng định những kết quả đạt được; thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân; nhận diện tình hình, cơ hội, thách thức và đề xuất định hướng lớn của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026-2035.
Thủ tướng nhấn mạnh, thực tiễn cho thấy việc xây dựng, tổ chức thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đúng, trúng, phù hợp, hiệu quả mang lại rất tích cực:
Thứ nhất, góp phần cơ cấu lại, phát triển kinh tế đất nước theo hướng nhanh, bền vững.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, văn hóa, giáo dục, điện - đường - trường -trạm, diện mạo nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được nâng lên toàn diện.
Thứ ba, Việt Nam trở thành hình mẫu thế giới về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có giảm nghèo, phát triển nông thôn, cung cấp nước sạch.
Phân tích các nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, Thủ tướng nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Tô Lâm; sự chung sức đồng lòng của cả dân tộc, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự hợp tác của bạn bè quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp trong mối quan hệ nông nghiệp – nông dân – nông thôn, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân; phát huy nguồn lực thiên nhiên, nền văn hóa, văn minh lúa nước và phát huy nguồn lực con người, sự tham gia của người nông dân.

Thủ tướng: Chúng ta tiếp tục thực hiện các chương trình, phong trào thi đua, kiên trì, kiên định để thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Định hướng thời gian sắp tới, Thủ tướng nêu rõ, theo định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc; chúng ta tiếp tục thực hiện các chương trình, phong trào thi đua, kiên trì, kiên định để thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh như Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra và mục tiêu giảm nghèo toàn diện, bao trùm và bền vững.
Để đạt mục tiêu đề ra, Thủ tướng nhấn mạnh, cả hệ thống chính trị (cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội) cần tập trung thực hiện "4 đẩy mạnh":
Một là, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế để phục vụ nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng của sự phát triển.
Hai là, đẩy mạnh phát triển hạ tầng chiến lược cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gồm hạ tầng giao thông, năng lượng, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, hạ tầng số… theo hướng xanh và bền vững).
Ba là, đẩy mạnh xây dựng, phát triển yếu tố con người, cụ thể là nông dân phù hợp với giai đoạn cách mạng mới, sự phát triển mới, chính quyền địa phương 2 cấp, thực hiện "bộ tứ trụ cột" theo 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị (đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; hội nhập quốc tế trong tình hình mới; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển kinh tế tư nhân).
Bốn là, đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp phù hợp nhu cầu và sự hưởng thụ của người dân Việt Nam và người tiêu dùng thế giới; đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong nông nghiệp; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông nghiệp. Thủ tướng lấy ví dụ về mặt hàng thực phẩm Halal với 2 tỷ người sử dụng trên thế giới.
Với người nông dân, Thủ tướng đề nghị thực hiện "3 tiên phong": Tiên phong thoát nghèo và thi đua làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển; tiên phong xây dựng nông dân văn minh; tiên phong sản xuất xanh, bền vững, chuyển đổi số và đặc biệt là triển khai phong trào Bình dân học vụ số, xây dựng nền kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, công dân số.

Thủ tướng lưu ý, việc triển khai các chương trình, phong trào phải sống động, thực chất, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các bộ ngành, các cấp, Thủ tướng yêu cầu cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư; tập trung khẩn trương xây dựng các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035 theo hướng tích hợp; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, phân công 6 rõ: Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.
Thủ tướng cho rằng trong bối cảnh hiện nay, phải lấy nguồn lực nhà nước đóng vai trò "vốn mồi", dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội, kêu gọi đoàn kết, chung tay của tất cả mọi người, của doanh nghiệp, thúc đẩy hợp tác công tư. Phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để giải phóng nguồn lực; đào tạo nhân lực; đầu tư hạ tầng; làm tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và môi trường nông thôn để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
Thủ tướng lưu ý, việc triển khai các chương trình, phong trào phải sống động, thực chất, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, có công cụ để ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong quá trình thực hiện; các cơ quan báo chí truyền thông cần vào cuộc đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về nội dung này.
"Chủ trương đúng, đồng thuận phải cao, tổ chức thực hiện phải hiệu quả và sự hưởng thụ của người dân phải thực chất, để người nông dân cảm nhận thực sự thành quả mang lại chứ không phải những lời sáo rỗng, những lời hứa suông", Thủ tướng nhấn mạnh.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng trao Huân chương Lao động hạng 3 cho 31 huyện của 12 tỉnh có thành tích nổi bật trong xây dựng nông thôn mới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tại Hội nghị, Bộ Nội vụ đã công bố các quyết định của Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ khen thưởng 306 tập thể, cá nhân tiêu biểu trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia và phong trào thi đua. Cụ thể, 31 huyện của 12 tỉnh, gồm 12 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 19 huyện đạt chuẩn nông thôn mới được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng 3; 275 tập thể, cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ./.